Hiển thị các bài đăng có nhãn Làng nghề. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Làng nghề. Hiển thị tất cả bài đăng
Nhắc đến Quảng Nam, người ta nhớ ngay đến mì Quảng. Nhưng với ai đã từng thưởng thức ắt hẳn sẽ không quên được món phở sắn cá ngừ của vùng đất Quế Sơn của vùng đất dưới chân Hòn Kẽm, Hòn Tàu.

< Hấp dẫn tô nước nhưng (nước lèo) chan phở sắn.

Phở sắn Quế Sơn là món ngon độc đáo và rất Quảng. Rất Quảng, vì đó là “hợp phần” của ăn no và ăn ngon. Của béo, bùi, cay, nhẫn. Là dễ dàng thay đổi một vài thành phần nguyên liệu để phù hợp với điều kiện sẵn có hoặc khẩu vị của người ăn. Rất Quảng vì ngon lưỡi, ngon mũi, ngon tai, lại ngon con mắt…

< Một công đoạn làm phở sắn.

Quế Sơn là miền đất trung du, trừ những dải đồng bằng hẹp phù sa sông Thu Bồn, phần lớn diện tích trồng trọt là đất bạc màu, thiếu nước. Từ lâu đời cây sắn (khoai mì) trở thành loại cây lương thực quan trọng góp phần nuôi sống con người và chăn nuôi gia cầm, gia súc. Người Quế Sơn cần cù, chịu thương chịu khó, lại khéo tay, giàu sáng kiến. Chỉ riêng món phở sắn Quế Sơn cũng đã nói được nhiều điều.

Chuyện rằng, những lò chế biến sợi phở sắn bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ trước, nhưng rồi chiến tranh đã khiến các chủ lò phải đóng cửa sau đó chưa đầy 10 năm. Hơn 20 năm trở lại đây, nghề này được khởi động trở lại và đang có cơ phát triển khá. Lần lượt Quế Châu, thị trấn Đông Phú, Quế Thuận rồi Quế Minh, Quế Long, Quế Phong… các lò làm sợi phở lần lượt được dựng lên và làm ăn khấm khá. Tiếng tăm món phở mang tên vùng đất thảo thơm hương quế bắt đầu lan dần khắp tỉnh Quảng Nam, ngược ra Đà Nẵng, lan dần vào Quảng Ngãi. Và xa dần…

< Phở sắn khô.

Sợi phở sắn người ta vẫn gọi vui là hàng rào B40 bởi hình dạng của nó giống những tấm lưới rào chắn.
Để có sợi phở sắn, việc đầu tiên là phải chế biến sắn củ hoặc sắn lát thành bột sắn tinh. Đem sắn lát đã phơi khô xay bằng máy hoặc giã củ sắn tươi trong cối đá để có bột thô. Bột ấy ngâm trong ghè nước lã, rồi quấy lên để tinh bột rời gân và xơ. Qua đêm thì bột lắng xuống đáy. Nghiêng ghè để chắt bỏ nước và xơ củ nổi bên trên. Lại cho nước vào, cứ ngâm xả như vậy cho đến khi nước không còn đục, chất độc, xơ gân và vị đắng trong bột sắn thô sẽ bị loại, để chỉ còn lại bột tinh. Bột tinh sau khi phơi nắng có thể dùng nấu chè, làm bánh kẹo, bún cuộn, bánh tráng...

Để làm bánh phở sắn, trước tiên, cho bột tinh vào nồi, bắc lên bếp, khuấy đều tay, đun nhỏ lửa để bột chín đều và khỏi bị sít dưới đáy nồi. Quấy như vậy đến khi nghe tay hơi nặng là bột đã chín tới. Đưa bột chín ra thau, để nguội, rồi múc bột đổ lên khuôn. Người thợ dùng lực ép chày từ trên xuống để bột trong khuôn thoát ra các lỗ tròn nhỏ phía dưới đáy. Một người thợ khác dùng tấm vỉ tre đan mỏng, vừa khéo léo đón lấy sợi phở vừa đưa thật đều tay trải trên vỉ theo hình mắt cáo. Những tấm phở này sẽ được đem phơi khô cho tròn một nắng.

Trước khi ăn, người ta bẻ tấm phở sắn thành những miếng nhỏ bằng non nửa bàn tay, đem ngâm trong nước ấm chừng vài ba phút cho vừa mềm, vớt ra rổ, để ráo nước. Cứ mỗi tô cho vào vài bánh phở, chan nước nhưn (nước chan) rồi phủ lên trên chuối thái, rau húng, rắc ít lạc rang đã giã dập, thêm quả ớt, lát chanh, mấy muỗng hành thái mỏng là có một tô phở ngon lành.

Chế biến nước nhưn là khâu quan trọng cho một tô phở sắn đậm đà hương vị của miền đất đèo Le, hòn Tàu. Thịt cá lóc thái lát mỏng, ướp gia vị để chừng mươi phút. Xương thì đem giã vắt lấy nước. Bắc chảo lên bếp, cho ít dầu lạc và khử bằng mấy tép tỏi đập dập. Đổ cá vào um cho săn lại, nước cốt xương cá đưa vào, châm nước cho vừa đủ dùng, gia chút bột nghệ, bột tiêu để thêm màu, thêm vị.

Màu trắng sẫm của bánh phở đan vào màu trắng nõn của những lát chuối sứ non. Rau húng duỗi tươi tắn xanh làm bật lên màu ớt chín đỏ lựng. Lạc rang ngả vàng, hành lơ mơ tím. Phủ lên tất cả là những đốm sao vàng nghệ của nước nhưn.

< Phơi phở sắn.

Sợi phở sắn đã qua nước chần vừa đủ chín có vị bùi bùi ăn kèm miếng thịt cá lóc béo ngầy ngậy. Lạc rang vừa giã thơm phưng phức lẫn lát chuối sứ cây vừa chát vừa nhân nhẫn. Rau húng se se điệu đà với the the hành tím rồi bất chợt phá cách với trái ớt xiêm làm thực khách cay đến ứa nước mắt, mồ hôi lấm tấm trên thái dương, vị giác từ đây bắt đầu bị kích thích đến khó kiềm. Người sành điệu khi ăn phở sắn cứ chốc chốc đưa tay bẻ một mẫu bánh tráng mè nướng dòn. Âm thanh rôm rốp của bánh tráng khi bẻ bằng tay và khi nhai khe khẽ trong khoang miệng sẽ khiến bữa ăn càng trở nên thống khoái.

Kể là như vậy, nhưng chẳng cần câu nệ, nước nhưn, rau sống. Chuối cây xắt lát có thể thay bằng búp chuối non, rau dớn rừng hay rau muống chẻ sợi. Cá lóc có thể thay bằng cá ngừ, cá hồng hay nhộng tằm, cua ốc. Húng duỗi thay bằng rau quế…Có nơi lại gia thêm thịt nạc băm và tôm vào nước nhưn.

Về Quế Sơn, đi thuyền trên sông Thu Bồn vào lúc ánh tà, ngắm núi Chúa, núi Cà Tang trong chiều nhạt bóng, chợt nhớ câu ca dao thắm tình, nặng nghĩa: Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng/ Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bạn ơi…

Quay mũi con thuyền nhỏ để về nhà bạn. Đợi ở đó từ lúc nào, những khuôn mặt hiền hậu chân tình, nụ cười hiếu khách. Nổi bếp lên cho nồi nước nhưn nóng sốt và bắt đầu thưởng thức tô phở sắn đậm đà, râm ran những câu chuyện ngỡ như không bao giờ dứt về suối Ông, suối Bà, về quả lòn bon và những ngôi nhà cổ…

Nhắc đến món ăn Quảng Nam là nhớ ngay mì Quảng. Đã được xếp vào hàng món ngon số má trong gia đình ẩm thực Việt nên một tô mì Quảng ngon giờ có thể tìm thấy ở Quảng Ngãi, Bình Định, Sài Gòn, Phú Quốc... Phở sắn Quế Sơn cũng là món ăn rất Quảng, nhưng chỉ có thể tìm thấy ở Quế Sơn.

Đã vậy, sao bạn không về với Quế Sơn để thưởng thức một món ăn vừa lạ, vừa độc đáo. Và hơn thế nữa, được đến với một miền quê thơ mộng, thanh bình?

Nhắc đến Quảng Nam, người ta nhớ ngay đến mì Quảng. Nhưng với ai đã từng thưởng thức ắt hẳn sẽ không quên được món phở sắn cá ngừ của vùng đất Quế Sơn của vùng đất dưới chân Hòn Kẽm, Hòn Tàu.

< Hấp dẫn tô nước nhưng (nước lèo) chan phở sắn.

Phở sắn Quế Sơn là món ngon độc đáo và rất Quảng. Rất Quảng, vì đó là “hợp phần” của ăn no và ăn ngon. Của béo, bùi, cay, nhẫn. Là dễ dàng thay đổi một vài thành phần nguyên liệu để phù hợp với điều kiện sẵn có hoặc khẩu vị của người ăn. Rất Quảng vì ngon lưỡi, ngon mũi, ngon tai, lại ngon con mắt…

< Một công đoạn làm phở sắn.

Quế Sơn là miền đất trung du, trừ những dải đồng bằng hẹp phù sa sông Thu Bồn, phần lớn diện tích trồng trọt là đất bạc màu, thiếu nước. Từ lâu đời cây sắn (khoai mì) trở thành loại cây lương thực quan trọng góp phần nuôi sống con người và chăn nuôi gia cầm, gia súc. Người Quế Sơn cần cù, chịu thương chịu khó, lại khéo tay, giàu sáng kiến. Chỉ riêng món phở sắn Quế Sơn cũng đã nói được nhiều điều.

Chuyện rằng, những lò chế biến sợi phở sắn bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ trước, nhưng rồi chiến tranh đã khiến các chủ lò phải đóng cửa sau đó chưa đầy 10 năm. Hơn 20 năm trở lại đây, nghề này được khởi động trở lại và đang có cơ phát triển khá. Lần lượt Quế Châu, thị trấn Đông Phú, Quế Thuận rồi Quế Minh, Quế Long, Quế Phong… các lò làm sợi phở lần lượt được dựng lên và làm ăn khấm khá. Tiếng tăm món phở mang tên vùng đất thảo thơm hương quế bắt đầu lan dần khắp tỉnh Quảng Nam, ngược ra Đà Nẵng, lan dần vào Quảng Ngãi. Và xa dần…

< Phở sắn khô.

Sợi phở sắn người ta vẫn gọi vui là hàng rào B40 bởi hình dạng của nó giống những tấm lưới rào chắn.
Để có sợi phở sắn, việc đầu tiên là phải chế biến sắn củ hoặc sắn lát thành bột sắn tinh. Đem sắn lát đã phơi khô xay bằng máy hoặc giã củ sắn tươi trong cối đá để có bột thô. Bột ấy ngâm trong ghè nước lã, rồi quấy lên để tinh bột rời gân và xơ. Qua đêm thì bột lắng xuống đáy. Nghiêng ghè để chắt bỏ nước và xơ củ nổi bên trên. Lại cho nước vào, cứ ngâm xả như vậy cho đến khi nước không còn đục, chất độc, xơ gân và vị đắng trong bột sắn thô sẽ bị loại, để chỉ còn lại bột tinh. Bột tinh sau khi phơi nắng có thể dùng nấu chè, làm bánh kẹo, bún cuộn, bánh tráng...

Để làm bánh phở sắn, trước tiên, cho bột tinh vào nồi, bắc lên bếp, khuấy đều tay, đun nhỏ lửa để bột chín đều và khỏi bị sít dưới đáy nồi. Quấy như vậy đến khi nghe tay hơi nặng là bột đã chín tới. Đưa bột chín ra thau, để nguội, rồi múc bột đổ lên khuôn. Người thợ dùng lực ép chày từ trên xuống để bột trong khuôn thoát ra các lỗ tròn nhỏ phía dưới đáy. Một người thợ khác dùng tấm vỉ tre đan mỏng, vừa khéo léo đón lấy sợi phở vừa đưa thật đều tay trải trên vỉ theo hình mắt cáo. Những tấm phở này sẽ được đem phơi khô cho tròn một nắng.

Trước khi ăn, người ta bẻ tấm phở sắn thành những miếng nhỏ bằng non nửa bàn tay, đem ngâm trong nước ấm chừng vài ba phút cho vừa mềm, vớt ra rổ, để ráo nước. Cứ mỗi tô cho vào vài bánh phở, chan nước nhưn (nước chan) rồi phủ lên trên chuối thái, rau húng, rắc ít lạc rang đã giã dập, thêm quả ớt, lát chanh, mấy muỗng hành thái mỏng là có một tô phở ngon lành.

Chế biến nước nhưn là khâu quan trọng cho một tô phở sắn đậm đà hương vị của miền đất đèo Le, hòn Tàu. Thịt cá lóc thái lát mỏng, ướp gia vị để chừng mươi phút. Xương thì đem giã vắt lấy nước. Bắc chảo lên bếp, cho ít dầu lạc và khử bằng mấy tép tỏi đập dập. Đổ cá vào um cho săn lại, nước cốt xương cá đưa vào, châm nước cho vừa đủ dùng, gia chút bột nghệ, bột tiêu để thêm màu, thêm vị.

Màu trắng sẫm của bánh phở đan vào màu trắng nõn của những lát chuối sứ non. Rau húng duỗi tươi tắn xanh làm bật lên màu ớt chín đỏ lựng. Lạc rang ngả vàng, hành lơ mơ tím. Phủ lên tất cả là những đốm sao vàng nghệ của nước nhưn.

< Phơi phở sắn.

Sợi phở sắn đã qua nước chần vừa đủ chín có vị bùi bùi ăn kèm miếng thịt cá lóc béo ngầy ngậy. Lạc rang vừa giã thơm phưng phức lẫn lát chuối sứ cây vừa chát vừa nhân nhẫn. Rau húng se se điệu đà với the the hành tím rồi bất chợt phá cách với trái ớt xiêm làm thực khách cay đến ứa nước mắt, mồ hôi lấm tấm trên thái dương, vị giác từ đây bắt đầu bị kích thích đến khó kiềm. Người sành điệu khi ăn phở sắn cứ chốc chốc đưa tay bẻ một mẫu bánh tráng mè nướng dòn. Âm thanh rôm rốp của bánh tráng khi bẻ bằng tay và khi nhai khe khẽ trong khoang miệng sẽ khiến bữa ăn càng trở nên thống khoái.

Kể là như vậy, nhưng chẳng cần câu nệ, nước nhưn, rau sống. Chuối cây xắt lát có thể thay bằng búp chuối non, rau dớn rừng hay rau muống chẻ sợi. Cá lóc có thể thay bằng cá ngừ, cá hồng hay nhộng tằm, cua ốc. Húng duỗi thay bằng rau quế…Có nơi lại gia thêm thịt nạc băm và tôm vào nước nhưn.

Về Quế Sơn, đi thuyền trên sông Thu Bồn vào lúc ánh tà, ngắm núi Chúa, núi Cà Tang trong chiều nhạt bóng, chợt nhớ câu ca dao thắm tình, nặng nghĩa: Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng/ Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bạn ơi…

Quay mũi con thuyền nhỏ để về nhà bạn. Đợi ở đó từ lúc nào, những khuôn mặt hiền hậu chân tình, nụ cười hiếu khách. Nổi bếp lên cho nồi nước nhưn nóng sốt và bắt đầu thưởng thức tô phở sắn đậm đà, râm ran những câu chuyện ngỡ như không bao giờ dứt về suối Ông, suối Bà, về quả lòn bon và những ngôi nhà cổ…

Nhắc đến món ăn Quảng Nam là nhớ ngay mì Quảng. Đã được xếp vào hàng món ngon số má trong gia đình ẩm thực Việt nên một tô mì Quảng ngon giờ có thể tìm thấy ở Quảng Ngãi, Bình Định, Sài Gòn, Phú Quốc... Phở sắn Quế Sơn cũng là món ăn rất Quảng, nhưng chỉ có thể tìm thấy ở Quế Sơn.

Đã vậy, sao bạn không về với Quế Sơn để thưởng thức một món ăn vừa lạ, vừa độc đáo. Và hơn thế nữa, được đến với một miền quê thơ mộng, thanh bình?

Vào những ngày hè nóng bức, ở miền quê Bình Định ta thường thấy những cô gái gánh xoa xoa đi bán khắp nơi, miệng luôn cất tiếng rao lanh lảnh: “Xa xa đây! Xa xa đây! Ai ăn xa xa hôn ?”. Người địa phương đã gọi chệch từ xoa xoa, thành xa xa và đã thành một thói quen khó sửa.

< Gánh xoa xoa tại Bình Định.

Xoa xoa là món ăn mát bổ được chế biến hoàn toàn bằng rau câu biển. Rau câu có màu trắng đục hay màu nâu sẫm, có loại màu tím nhạt. Người ta vớt rau câu từ dưới biển rồi đem phơi nắng cho khô để chở đi bán hoặc bỏ vào các bao để dùng dần.

Trước khi nấu, rau câu khô được ngâm trong nước khoảng một ngày để cho rau nở đều và trút bỏ hết các chất bẩn. Khi luộc người ta bỏ thêm vào rau câu một ít lá bứa, có tác dụng giúp cho xoa xoa mau đông.

< Thu hoạch rong câu.

Sau khi chín, người ta vớt rau câu ra và bỏ vào chiếc bao vải để ép lấy nước, còn bã thì bỏ đi. Nước luộc rau câu được để nguội trong những chiếc tô nhựa hay sành chừng vài giờ thì đông lại, ta đã có được món xoa xoa. Thường thì xoa xoa có màu xanh nhạt hay nâu thẫm nhưng nếu cắt nhỏ ra từng khối thì nó trong suốt như pha lê. Người ta dùng con dao bén “xắn” thành từng miếng nhỏ vuông vức, mỗi bề chừng ba, bốn phân tây bỏ vào chiếc thau nhựa đã có sẵn nước lã. Khi nào dùng, người ta mới vớt ra.

Vào những ngày hè oi bức món ăn này được ưa chuộng nhất. Các cô gái thường gánh xoa xoa đi bán khắp chợ quê, chợ tỉnh. Tiếng rao lãnh lót, vang xa giữa trưa hè.

< Rong câu biển có hình dáng thế này.

Khi có người ăn, cô bán hàng lấy vài khối xoa xoa bỏ vào chén, dùng con dao nhỏ bén, xắt lia lịa, chẳng mấy chốc đã thành những miếng xoa xoa nhỏ vụn. Tiếng mũi dao chạm vào thành chén nghe giòn tan. Sau đó cô lại nhẹ nhàng dùng chiếc múc bé tẹo được làm bằng vỏ cau khô khéo léo múc mật trong chiếc hũ đất rồi rải đều lên chén xoa xoa.

< Rong câu sau khi được chế biến thành xoa xoa.

Gọi là ăn nhưng phải húp mới ngon và đúng là người sành ăn, bởi vậy ít có ai chịu dùng thìa. Vị ngọt thơm của mật, vị cay nóng của gừng cộng với sự mềm mại của xoa xoa sẽ làm hài lòng mọi thực khách.

“Xa xa vốn ít lời nhiều
Anh về bỏ vợ cưới người xa xa”

Theo Nhật Bình Nguyễn Như Bình (DĐKT)

Vào những ngày hè nóng bức, ở miền quê Bình Định ta thường thấy những cô gái gánh xoa xoa đi bán khắp nơi, miệng luôn cất tiếng rao lanh lảnh: “Xa xa đây! Xa xa đây! Ai ăn xa xa hôn ?”. Người địa phương đã gọi chệch từ xoa xoa, thành xa xa và đã thành một thói quen khó sửa.

< Gánh xoa xoa tại Bình Định.

Xoa xoa là món ăn mát bổ được chế biến hoàn toàn bằng rau câu biển. Rau câu có màu trắng đục hay màu nâu sẫm, có loại màu tím nhạt. Người ta vớt rau câu từ dưới biển rồi đem phơi nắng cho khô để chở đi bán hoặc bỏ vào các bao để dùng dần.

Trước khi nấu, rau câu khô được ngâm trong nước khoảng một ngày để cho rau nở đều và trút bỏ hết các chất bẩn. Khi luộc người ta bỏ thêm vào rau câu một ít lá bứa, có tác dụng giúp cho xoa xoa mau đông.

< Thu hoạch rong câu.

Sau khi chín, người ta vớt rau câu ra và bỏ vào chiếc bao vải để ép lấy nước, còn bã thì bỏ đi. Nước luộc rau câu được để nguội trong những chiếc tô nhựa hay sành chừng vài giờ thì đông lại, ta đã có được món xoa xoa. Thường thì xoa xoa có màu xanh nhạt hay nâu thẫm nhưng nếu cắt nhỏ ra từng khối thì nó trong suốt như pha lê. Người ta dùng con dao bén “xắn” thành từng miếng nhỏ vuông vức, mỗi bề chừng ba, bốn phân tây bỏ vào chiếc thau nhựa đã có sẵn nước lã. Khi nào dùng, người ta mới vớt ra.

Vào những ngày hè oi bức món ăn này được ưa chuộng nhất. Các cô gái thường gánh xoa xoa đi bán khắp chợ quê, chợ tỉnh. Tiếng rao lãnh lót, vang xa giữa trưa hè.

< Rong câu biển có hình dáng thế này.

Khi có người ăn, cô bán hàng lấy vài khối xoa xoa bỏ vào chén, dùng con dao nhỏ bén, xắt lia lịa, chẳng mấy chốc đã thành những miếng xoa xoa nhỏ vụn. Tiếng mũi dao chạm vào thành chén nghe giòn tan. Sau đó cô lại nhẹ nhàng dùng chiếc múc bé tẹo được làm bằng vỏ cau khô khéo léo múc mật trong chiếc hũ đất rồi rải đều lên chén xoa xoa.

< Rong câu sau khi được chế biến thành xoa xoa.

Gọi là ăn nhưng phải húp mới ngon và đúng là người sành ăn, bởi vậy ít có ai chịu dùng thìa. Vị ngọt thơm của mật, vị cay nóng của gừng cộng với sự mềm mại của xoa xoa sẽ làm hài lòng mọi thực khách.

“Xa xa vốn ít lời nhiều
Anh về bỏ vợ cưới người xa xa”

Theo Nhật Bình Nguyễn Như Bình (DĐKT)

Hàng năm, vào mùa nước lên (khoảng từ tháng tám đến tháng mười Âm lịch), ở Cà Mau ba khía từ những hang ổ dày đặc dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía nhiều không biết bao nhiêu mà kể chen chúc nhau bám vào những thân đước, thân mắm. Gọi là “Chợ tình ba khía” cho vui chứ thực ra là ở thời điểm này ba khía quần hội cả một vùng, cư dân nơi này gọi là “ba khía hội”.

Họ hàng ba khía sống tập trung ở môi trường nước lợ, nơi các cửa sông, cửa rạch đổ ra biển, ba khía có nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu... Thoạt trông ba khía rất giống cua đồng hoặc giống con chù ụ ở biển Ba Động Trà Vinh nhưng vóc dáng nhỏ hơn, càng và nghoe dẹp có thêm ba vạch ở trên chiếc mai màu sẫm nên “chết danh” ba khía.

Rất ngộ, đúng cữ tháng 8, tháng 10 hằng năm, từng cặp ba khía lềnh khềnh bu kín gốc tràm, mắm. Mỗi năm chúng chỉ xuất hiện khoảng 3 ngày, sau đó chúng tản đi đâu hết và năm sau đến hẹn lại lên. Chúng bám nhau sát rạt từng đôi, từng đôi một dày đặc cả một vùng như thể tổ chức “đám cưới” tập thể vậy. Tầm đó ba khía giao phối, sinh sản, cũng là lúc thịt ba khía chắc và ngon nhất. Nét độc đáo của chợ tình Ba Khía ở Cà Mau đã tạo nên điểm nhấn đặc biệt cho vùng đất này.

Ngay tại vùng đất mũi cũng có nhiều sự phân chia vùng sinh sống của ba khía. Chỉ có vùng Rạch Gốc, Tân Ân là ba khía có thịt ngon, thơm và chắc nịch. Ba khía vùng này ăn trái đước, vẹt đặc biệt là trái mắm đen – thứ cây có nhiều rễ bám sâu vào lòng đất của vùng bãi bồi, hàng năm rụng trái làm đen cả nước – nên gạch son nhiều và thịt chắc, ăn rất thơm. Những người sống ở Rạch Gốc cho biết ba khía có hai loại ngon: Một là loại có càng to màu xanh chuyên sống trong hang, dưới nước và trong các khu rừng ngập mặn. Hai là loại ba khía này càng nhỏ, thân mảnh nhưng chúng kẹp rất đau. Còn loại ba khía ăn trái mắm trắng có gạch màu tro thì ăn không ngon bằng.

Vào mùa ba khía “sánh đôi” những người dân chuyên nghề “làm ba khía” tứ phương gói ghém gạo, muối, nước, nóp ngủ, khạp da bò, khạp ba vú… chất xuống xuồng, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống, khi nước lớn ba khía kéo hàng đàn ra. Ban đêm ở rừng “muỗi kêu như sáo thổi”, những người thợ “săn ba khía” mặc áo dày, che kín mặt mũi, chân tay,  lấy vỏ tràm hay lá mắm khô xé nhỏ độn bên trong áo chống muỗi, cầm đuốc, bơi xuồng bắt đầu “mùa săn”. Chỉ cần ghé xuồng vào các gốc đước, mắm ba khía bám đầy không có chỗ trống vuốt nhẹ những "anh - chị” ba khía còn đang say sưa tình tự, cho vào khạp hoặc cần xé đặt sẵn trên khoang. Trong một con nước, một người có kinh nghiệm và cần mẫn có thể bắt được một khạp đầy ba khía.

Ngày trước, nghề làm ba khía bị xem là nghề hạ bạc của con nhà nghèo bởi muốn bắt phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu muỗi vắt bu kín mình mẩy. Ca dao cũng ghi dấu mùa “săn ba khía”:
Tháng bảy nước chảy Cà Mau
Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi làm
U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm
Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi.

Người ta còn gọi Cà Mau là xứ sở con ba khía bởi nó gắn bó với người nông dân ở đây từ hồi lập cõi mở đất để đến bây giờ món ba khía muối trở thành món “lừng danh Cà Mau”. Muối ba khía cũng phải có kinh nghiệm và kỹ thuật, quá trình đơn giản nhưng cách pha nước muối thế nào cho vừa là khó, nếu muối chưa đủ mặn, con ba khía sẽ bủng, không để được lâu. Cho nên phải qua hai lần nước muối, con ba khía mới giữ được màu sắc như khi còn sống, thịt vẫn chắc, mặn dịu, ăn ngon. Kinh nghiệm pha nước muối là bỏ hạt cơm nguội vào, nếu hạt cơm nổi lờ đờ là được. Nước muối chuẩn bị xong thì cho ba khía vào khạp da bò hoặc khạp ba vú ngâm. Tuyệt đối không để nước mưa lọt vào nếu không ba khía sẽ bị “trớ”, có mùi hôi. Phần nước muối còn lại trong khạp khi đã ăn hoặc bán hết ba khía dùng để nấu nước mắm rất ngon.

Tương truyền rằng công tử Bạc Liêu Ba Huy rất thích món ba khía muối. Chàng công tử “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” ấy ăn ba khía để nhắc bản thân mình nhớ cha ông thưở mở đất khai hoang đã đổ mồ hôi sôi nước mắt gây dựng cơ nghiệp. Thế mới biết cái món “chân quê” ấy đâu chỉ dành riêng cho người nghèo mà đó còn là “hồn quê”, là món ăn không thể nhạt phai trong tâm khảm bất cứ người nào đã từng sống, đã từng thưởng thức nó tại vùng sông nước Nam Bộ. Bởi vậy người miền Tây có câu “Đừng lo cưới vợ miệt đồng/ Ba khía cơm nguội ăn ròng cả năm”.

Từ vài năm nay, người ta chế biến thêm một vài món từ ba khía nhằm phục vụ nhu cầu ăn uống đang đòi hỏi ngày càng đa dạng: Ba khía rang me, ba khía rang mỡ hành, ba khía luộc "khan” chấm muối tiêu chanh ớt, cháo ba khía, gỏi ba khía… Độc đáo hơn còn có món canh chua ba khía. Lần về Rạch Gốc, cậu tôi hì hụi nấu canh chua ba khía đãi cháu. Trước tiên, rửa ba khía thật sạch đất bùn, sau đó bóc yếm và bẻ đôi làm hai nửa, tách cả càng, gọng. Tất cả ướp cùng hành lá giã nhuyễn, thêm đường, chút nước mắm, ít tiêu vào trộn đều. Bắc chảo dầu lên bếp, phi tỏi thật thơm rồi cho ba khía  đã ướp vào xào sơ. Khi mùi thơm của ba khía bốc lên cho cà chua đã bổ miếng vào, đảo đều và nhanh tay cho nước sôi để ngội với lượng vừa ăn. Đợi nồi canh sôi bùng lên, lọc trái giác và một ít bắp chuối đã thái chỉ vào. Ba khía chín, nêm gia vị lại lần nữa cho vừa miệng rồi tắt bếp, rắc thêm tiêu. Lần đầu tiên được ăn món canh chua lạ miệng đó, tôi “quất” một bữa no “đã đời”.

Nói gì thì nói, ba khía có chế biến thành trăm món ngon khác thì cũng không “qua mặt” được món nguyên thủy: Ba khía muối! Nếu giản dị thì xúc tô cơm nguội, vừa ăn vừa lấy tay bóc con ba khía muối, nút càng chùn chụt đúng điệu dân miền Tây rặt. Công phu hơn thì trụng ba khía bằng nước cơm còn ấm, tách yếm ba khía, bẻ ngoe, càng ướp tỏi ớt giã nhuyễn, chút đường cát trắng, thêm nước cốt chanh, sắt trái khế thiệt mỏng hay đập dập mấy trái cóc non bỏ vô tô trộn đều, để một chút cho ba khía thấm gia vị… Khi ăn nhất định phải có đầy đủ rau ăn kèm thì ăn món ba khía mới “bắt”, đó là dưa leo, chuối chát, rau thơm, rau răm, rau dừa, bông lục bình… Nhiều người ăn cầu kì còn phi mỡ tỏi cho thơm rồi tưới lên tô ba khía đã ướp để tăng độ béo. Món ba khía lúc này đã trở nên tuyệt hảo, ngon nhức răng. Dưa bồn bồn nhận bằng nước vo gạo ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn “chết bỏ”.

Ba khía giờ không còn là món nhà nghèo mà đã được vinh danh trong menu ở các nhà hàng, khách sạn nhưng tình thiệt ăn ba khía trong nhà lá, chan nước chắt cơm, uống nước mưa hay xúc tô cơm nguội với vài con ba khía ngồi dưới gốc dừa vừa ăn vừa bốc mới cảm nhận đầy đủ chất ruộng đồng sông nước miền Tây. Dân miền Τâу quen sống thanh bạch, mộc mạc; сó lẽ vì thế mà ngaу đến cả món mắm ba khía đặc sản cũng rất đỗi bình dị với dân quê. Tình thiệt, mắm ba khía chỉ ngоn nhất khi ăn với…cơm nguội!

Mấy năm gần đây ba khía Cà Mau không còn nhiều như trước, rừng bãi bồi bị phá, trái mắm đen thưa rụng vì cây mắm bị triệt hạ nhiều, ba khía “tủi thân” rủ nhau đi đâu càng ngày càng vắng. Tự dưng nghe nhói lòng khi nghĩ vào những ngày 30 tháng 8 hoặc tháng 9 âm lịch tới không Cà Mau không còn “chợ tình” ba khía thì Cà Mau có còn là Cà Mau….

Hàng năm, vào mùa nước lên (khoảng từ tháng tám đến tháng mười Âm lịch), ở Cà Mau ba khía từ những hang ổ dày đặc dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía nhiều không biết bao nhiêu mà kể chen chúc nhau bám vào những thân đước, thân mắm. Gọi là “Chợ tình ba khía” cho vui chứ thực ra là ở thời điểm này ba khía quần hội cả một vùng, cư dân nơi này gọi là “ba khía hội”.

Họ hàng ba khía sống tập trung ở môi trường nước lợ, nơi các cửa sông, cửa rạch đổ ra biển, ba khía có nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu... Thoạt trông ba khía rất giống cua đồng hoặc giống con chù ụ ở biển Ba Động Trà Vinh nhưng vóc dáng nhỏ hơn, càng và nghoe dẹp có thêm ba vạch ở trên chiếc mai màu sẫm nên “chết danh” ba khía.

Rất ngộ, đúng cữ tháng 8, tháng 10 hằng năm, từng cặp ba khía lềnh khềnh bu kín gốc tràm, mắm. Mỗi năm chúng chỉ xuất hiện khoảng 3 ngày, sau đó chúng tản đi đâu hết và năm sau đến hẹn lại lên. Chúng bám nhau sát rạt từng đôi, từng đôi một dày đặc cả một vùng như thể tổ chức “đám cưới” tập thể vậy. Tầm đó ba khía giao phối, sinh sản, cũng là lúc thịt ba khía chắc và ngon nhất. Nét độc đáo của chợ tình Ba Khía ở Cà Mau đã tạo nên điểm nhấn đặc biệt cho vùng đất này.

Ngay tại vùng đất mũi cũng có nhiều sự phân chia vùng sinh sống của ba khía. Chỉ có vùng Rạch Gốc, Tân Ân là ba khía có thịt ngon, thơm và chắc nịch. Ba khía vùng này ăn trái đước, vẹt đặc biệt là trái mắm đen – thứ cây có nhiều rễ bám sâu vào lòng đất của vùng bãi bồi, hàng năm rụng trái làm đen cả nước – nên gạch son nhiều và thịt chắc, ăn rất thơm. Những người sống ở Rạch Gốc cho biết ba khía có hai loại ngon: Một là loại có càng to màu xanh chuyên sống trong hang, dưới nước và trong các khu rừng ngập mặn. Hai là loại ba khía này càng nhỏ, thân mảnh nhưng chúng kẹp rất đau. Còn loại ba khía ăn trái mắm trắng có gạch màu tro thì ăn không ngon bằng.

Vào mùa ba khía “sánh đôi” những người dân chuyên nghề “làm ba khía” tứ phương gói ghém gạo, muối, nước, nóp ngủ, khạp da bò, khạp ba vú… chất xuống xuồng, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống, khi nước lớn ba khía kéo hàng đàn ra. Ban đêm ở rừng “muỗi kêu như sáo thổi”, những người thợ “săn ba khía” mặc áo dày, che kín mặt mũi, chân tay,  lấy vỏ tràm hay lá mắm khô xé nhỏ độn bên trong áo chống muỗi, cầm đuốc, bơi xuồng bắt đầu “mùa săn”. Chỉ cần ghé xuồng vào các gốc đước, mắm ba khía bám đầy không có chỗ trống vuốt nhẹ những "anh - chị” ba khía còn đang say sưa tình tự, cho vào khạp hoặc cần xé đặt sẵn trên khoang. Trong một con nước, một người có kinh nghiệm và cần mẫn có thể bắt được một khạp đầy ba khía.

Ngày trước, nghề làm ba khía bị xem là nghề hạ bạc của con nhà nghèo bởi muốn bắt phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu muỗi vắt bu kín mình mẩy. Ca dao cũng ghi dấu mùa “săn ba khía”:
Tháng bảy nước chảy Cà Mau
Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi làm
U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm
Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi.

Người ta còn gọi Cà Mau là xứ sở con ba khía bởi nó gắn bó với người nông dân ở đây từ hồi lập cõi mở đất để đến bây giờ món ba khía muối trở thành món “lừng danh Cà Mau”. Muối ba khía cũng phải có kinh nghiệm và kỹ thuật, quá trình đơn giản nhưng cách pha nước muối thế nào cho vừa là khó, nếu muối chưa đủ mặn, con ba khía sẽ bủng, không để được lâu. Cho nên phải qua hai lần nước muối, con ba khía mới giữ được màu sắc như khi còn sống, thịt vẫn chắc, mặn dịu, ăn ngon. Kinh nghiệm pha nước muối là bỏ hạt cơm nguội vào, nếu hạt cơm nổi lờ đờ là được. Nước muối chuẩn bị xong thì cho ba khía vào khạp da bò hoặc khạp ba vú ngâm. Tuyệt đối không để nước mưa lọt vào nếu không ba khía sẽ bị “trớ”, có mùi hôi. Phần nước muối còn lại trong khạp khi đã ăn hoặc bán hết ba khía dùng để nấu nước mắm rất ngon.

Tương truyền rằng công tử Bạc Liêu Ba Huy rất thích món ba khía muối. Chàng công tử “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” ấy ăn ba khía để nhắc bản thân mình nhớ cha ông thưở mở đất khai hoang đã đổ mồ hôi sôi nước mắt gây dựng cơ nghiệp. Thế mới biết cái món “chân quê” ấy đâu chỉ dành riêng cho người nghèo mà đó còn là “hồn quê”, là món ăn không thể nhạt phai trong tâm khảm bất cứ người nào đã từng sống, đã từng thưởng thức nó tại vùng sông nước Nam Bộ. Bởi vậy người miền Tây có câu “Đừng lo cưới vợ miệt đồng/ Ba khía cơm nguội ăn ròng cả năm”.

Từ vài năm nay, người ta chế biến thêm một vài món từ ba khía nhằm phục vụ nhu cầu ăn uống đang đòi hỏi ngày càng đa dạng: Ba khía rang me, ba khía rang mỡ hành, ba khía luộc "khan” chấm muối tiêu chanh ớt, cháo ba khía, gỏi ba khía… Độc đáo hơn còn có món canh chua ba khía. Lần về Rạch Gốc, cậu tôi hì hụi nấu canh chua ba khía đãi cháu. Trước tiên, rửa ba khía thật sạch đất bùn, sau đó bóc yếm và bẻ đôi làm hai nửa, tách cả càng, gọng. Tất cả ướp cùng hành lá giã nhuyễn, thêm đường, chút nước mắm, ít tiêu vào trộn đều. Bắc chảo dầu lên bếp, phi tỏi thật thơm rồi cho ba khía  đã ướp vào xào sơ. Khi mùi thơm của ba khía bốc lên cho cà chua đã bổ miếng vào, đảo đều và nhanh tay cho nước sôi để ngội với lượng vừa ăn. Đợi nồi canh sôi bùng lên, lọc trái giác và một ít bắp chuối đã thái chỉ vào. Ba khía chín, nêm gia vị lại lần nữa cho vừa miệng rồi tắt bếp, rắc thêm tiêu. Lần đầu tiên được ăn món canh chua lạ miệng đó, tôi “quất” một bữa no “đã đời”.

Nói gì thì nói, ba khía có chế biến thành trăm món ngon khác thì cũng không “qua mặt” được món nguyên thủy: Ba khía muối! Nếu giản dị thì xúc tô cơm nguội, vừa ăn vừa lấy tay bóc con ba khía muối, nút càng chùn chụt đúng điệu dân miền Tây rặt. Công phu hơn thì trụng ba khía bằng nước cơm còn ấm, tách yếm ba khía, bẻ ngoe, càng ướp tỏi ớt giã nhuyễn, chút đường cát trắng, thêm nước cốt chanh, sắt trái khế thiệt mỏng hay đập dập mấy trái cóc non bỏ vô tô trộn đều, để một chút cho ba khía thấm gia vị… Khi ăn nhất định phải có đầy đủ rau ăn kèm thì ăn món ba khía mới “bắt”, đó là dưa leo, chuối chát, rau thơm, rau răm, rau dừa, bông lục bình… Nhiều người ăn cầu kì còn phi mỡ tỏi cho thơm rồi tưới lên tô ba khía đã ướp để tăng độ béo. Món ba khía lúc này đã trở nên tuyệt hảo, ngon nhức răng. Dưa bồn bồn nhận bằng nước vo gạo ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn “chết bỏ”.

Ba khía giờ không còn là món nhà nghèo mà đã được vinh danh trong menu ở các nhà hàng, khách sạn nhưng tình thiệt ăn ba khía trong nhà lá, chan nước chắt cơm, uống nước mưa hay xúc tô cơm nguội với vài con ba khía ngồi dưới gốc dừa vừa ăn vừa bốc mới cảm nhận đầy đủ chất ruộng đồng sông nước miền Tây. Dân miền Τâу quen sống thanh bạch, mộc mạc; сó lẽ vì thế mà ngaу đến cả món mắm ba khía đặc sản cũng rất đỗi bình dị với dân quê. Tình thiệt, mắm ba khía chỉ ngоn nhất khi ăn với…cơm nguội!

Mấy năm gần đây ba khía Cà Mau không còn nhiều như trước, rừng bãi bồi bị phá, trái mắm đen thưa rụng vì cây mắm bị triệt hạ nhiều, ba khía “tủi thân” rủ nhau đi đâu càng ngày càng vắng. Tự dưng nghe nhói lòng khi nghĩ vào những ngày 30 tháng 8 hoặc tháng 9 âm lịch tới không Cà Mau không còn “chợ tình” ba khía thì Cà Mau có còn là Cà Mau….

Chỉ còn một ngày nữa là đến ngày ông Công ông Táo, người dân làng Thuỷ Trầm (xã Tuy Lộc, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ) đang tất bật quăng lưới, đánh bắt cá chép đỏ đổ hàng cho các chuyến xe từ khắp nơi đổ về lấy hàng.

< Giáp Tết tiết trời lạnh giá, người dân làng Thủy Trầm vẫn chân đất xuống ao tát cá.

Hơn 40 năm qua, nghề nuôi cá chép đỏ của người dân làng Thuỷ Trầm ngày một phát triển khi nhu cầu cúng và dùng cá chép làm phương tiện tiễn ông Táo chầu trời vào dịp 23 tháng chạp ngày một tăng. Tại Thủy Trầm, có tới 90% dân làng nuôi và kinh doanh cá chép đỏ.

< Làng Thủy Trầm có hơn 500 hộ dân thì đa phần đều nuôi cá chép đỏ, mỗi năm xuất hàng chục tấn cá ra thị trường. Đa phần thương lái từ các tỉnh thành phố đến trực tiếp lấy hàng, nhưng cũng có khi chính nông dân Thủy Trầm phải chở cá hàng trăm cây số đi bỏ mối.

< Sau khi tát cá bằng lưới, các hộ gia đình phải bơm hết nước ra ngoài, lội xuống tận nơi để vớt những con cá còn lại.

Bắt đầu từ ngày 19 đến 22 tháng chạp, người dân làng Thủy Trầm nhộn nhịp đánh bắt cá từ dưới ao. Cá giống mua từ tháng 6 âm lịch và nuôi lớn dần cho đến cuối năm.

< Cá sau khi bắt từ ao lên sẽ đc cho vào lưới để sẵn, có khách hàng ra tận ao để mua cá.

Cá chép đỏ vốn có xuất xứ từ Nhật Bản. Giá bán buôn tại làng 85.000/kg. Mỗi cân hơn 50 con. Cá từ khi nhập giống về chỉ to bằng nửa ngón tay út, sau khoảng 6 tháng lớn lên to bằng hai đến ba ngón tay.

< Có nhà cho vào túi nilong đem về bể nhỏ ở nhà.

Có nhà thu gom cá vào một chiếc lưới lớn gần bờ rồi mang bao tải nylon ra đựng, thậm chí khách đến tận ao mua chở thẳng về chợ bán.

< Cá sau khi bắt từ ao lên được cho vào bể nước sạch chờ thương lái tới lấy.

Theo kinh nghiệm của người dân, mỗi mét vuông mặt nước chỉ thả khoảng 200-300 con giống. Nếu thả nhiều quá, cá khó lớn và ngược lại thả ít quá cá lớn nhanh, không phù hợp để cúng.

< Cá mẹ vây dài, thân đỏ có xuất xứ từ Nhật Bản dùng để gây giống.

< Cá ở dưới nước tung tăng bơi lội, thậm chí nhảy vọt lên nhưng khi ở gọn trong lòng bàn tay lại tỏ ra rất hiền lành.

Rồi cứ vào những ngày cận kề tiễn ông Táo về chầu trời, làng Thủy Trầm lại nhộn nhịp hẳn lên. Người người tát nước bắt cá, nhà nhà thu hoạch cá. Thương lái từ khắp nơi như Yên Bái, Hà Nội, Bắc Ninh…đổ về nhập cá chép.

< Cá được cho vào các bao ni-lông bơm đầy khí ôxi để vận chuyển. Cao điểm mua bán cá chép vàng vào khoảng ngày 21 tháng Chạp. Khi đó con đường dẫn vào làng thường chật kín các loại xe tải đến chở cá.

< Cá cũng được các khách mua nhỏ lẻ tất bật chở về chợ đem bán sớm. Mỗi sáng 23 tháng chạp, cả làng lại sạch bóng cá khi được vận chuyển đi hết.

< Cá chép thời điểm này có giá từ 80.000-85.000 đồng/1 kg. Mỗi kg được khoảng 50 con. Cá vừa đủ tầm, không quá lớn hoặc quá nhỏ dùng để cúng ông Công, ông Táo.

Nghề nuôi cá chép đỏ đã và đang là một con đường giúp người dân vùng trung du Thủy Trầm, Tuy Lộc có một cái tết no ấm, xa hơn nữa là thoát khỏi đói nghèo và làm giàu bằng chính nghề gia truyền của mình. Cá chép đỏ ở đây đã có thương hiệu từ lâu và được tỉnh Phú Thọ cấp chứng chỉ làng nghề nuôi cá chép đỏ.

Chỉ còn một ngày nữa là đến ngày ông Công ông Táo, người dân làng Thuỷ Trầm (xã Tuy Lộc, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ) đang tất bật quăng lưới, đánh bắt cá chép đỏ đổ hàng cho các chuyến xe từ khắp nơi đổ về lấy hàng.

< Giáp Tết tiết trời lạnh giá, người dân làng Thủy Trầm vẫn chân đất xuống ao tát cá.

Hơn 40 năm qua, nghề nuôi cá chép đỏ của người dân làng Thuỷ Trầm ngày một phát triển khi nhu cầu cúng và dùng cá chép làm phương tiện tiễn ông Táo chầu trời vào dịp 23 tháng chạp ngày một tăng. Tại Thủy Trầm, có tới 90% dân làng nuôi và kinh doanh cá chép đỏ.

< Làng Thủy Trầm có hơn 500 hộ dân thì đa phần đều nuôi cá chép đỏ, mỗi năm xuất hàng chục tấn cá ra thị trường. Đa phần thương lái từ các tỉnh thành phố đến trực tiếp lấy hàng, nhưng cũng có khi chính nông dân Thủy Trầm phải chở cá hàng trăm cây số đi bỏ mối.

< Sau khi tát cá bằng lưới, các hộ gia đình phải bơm hết nước ra ngoài, lội xuống tận nơi để vớt những con cá còn lại.

Bắt đầu từ ngày 19 đến 22 tháng chạp, người dân làng Thủy Trầm nhộn nhịp đánh bắt cá từ dưới ao. Cá giống mua từ tháng 6 âm lịch và nuôi lớn dần cho đến cuối năm.

< Cá sau khi bắt từ ao lên sẽ đc cho vào lưới để sẵn, có khách hàng ra tận ao để mua cá.

Cá chép đỏ vốn có xuất xứ từ Nhật Bản. Giá bán buôn tại làng 85.000/kg. Mỗi cân hơn 50 con. Cá từ khi nhập giống về chỉ to bằng nửa ngón tay út, sau khoảng 6 tháng lớn lên to bằng hai đến ba ngón tay.

< Có nhà cho vào túi nilong đem về bể nhỏ ở nhà.

Có nhà thu gom cá vào một chiếc lưới lớn gần bờ rồi mang bao tải nylon ra đựng, thậm chí khách đến tận ao mua chở thẳng về chợ bán.

< Cá sau khi bắt từ ao lên được cho vào bể nước sạch chờ thương lái tới lấy.

Theo kinh nghiệm của người dân, mỗi mét vuông mặt nước chỉ thả khoảng 200-300 con giống. Nếu thả nhiều quá, cá khó lớn và ngược lại thả ít quá cá lớn nhanh, không phù hợp để cúng.

< Cá mẹ vây dài, thân đỏ có xuất xứ từ Nhật Bản dùng để gây giống.

< Cá ở dưới nước tung tăng bơi lội, thậm chí nhảy vọt lên nhưng khi ở gọn trong lòng bàn tay lại tỏ ra rất hiền lành.

Rồi cứ vào những ngày cận kề tiễn ông Táo về chầu trời, làng Thủy Trầm lại nhộn nhịp hẳn lên. Người người tát nước bắt cá, nhà nhà thu hoạch cá. Thương lái từ khắp nơi như Yên Bái, Hà Nội, Bắc Ninh…đổ về nhập cá chép.

< Cá được cho vào các bao ni-lông bơm đầy khí ôxi để vận chuyển. Cao điểm mua bán cá chép vàng vào khoảng ngày 21 tháng Chạp. Khi đó con đường dẫn vào làng thường chật kín các loại xe tải đến chở cá.

< Cá cũng được các khách mua nhỏ lẻ tất bật chở về chợ đem bán sớm. Mỗi sáng 23 tháng chạp, cả làng lại sạch bóng cá khi được vận chuyển đi hết.

< Cá chép thời điểm này có giá từ 80.000-85.000 đồng/1 kg. Mỗi kg được khoảng 50 con. Cá vừa đủ tầm, không quá lớn hoặc quá nhỏ dùng để cúng ông Công, ông Táo.

Nghề nuôi cá chép đỏ đã và đang là một con đường giúp người dân vùng trung du Thủy Trầm, Tuy Lộc có một cái tết no ấm, xa hơn nữa là thoát khỏi đói nghèo và làm giàu bằng chính nghề gia truyền của mình. Cá chép đỏ ở đây đã có thương hiệu từ lâu và được tỉnh Phú Thọ cấp chứng chỉ làng nghề nuôi cá chép đỏ.

Những ngày cuối năm, có dịp đi qua làng hoa kiểng Bà Bộ (Q.Bình Thủy, TP.Cần Thơ) sẽ cảm nhận hết vẻ mỹ miều của làng hoa có bề dày lịch sử trên 70 năm. Đây chính là làng hoa Bà Bộ, chuyên khai thác các loài hoa và cây cảnh bản địa mà người miền Tây ưa chuộng.

Nghề cha truyền con nối

Tuy không đa dạng và phong phú bằng làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp) hay Cái Mơn (Bến Tre) nhưng mỗi năm, làng hoa kiểng Bà Bộ đã góp phần làm đẹp cho đời với trên 300.000 giỏ hoa và cây cảnh các loại. Ông Tám Hoài (quê ở Nha Mân, Đồng Tháp) là người khởi xướng phong trào trồng hoa ở Bà Bộ, nay đã qua đời.

Năm 1940, ông Tám Hoài qua Cần Thơ lập nghiệp, có mang theo một số hạt giống trồng thử nghiệm, rồi dần dần phổ biến cho bà con. Thế hệ nối tiếp ông gồm có các ông Năm Bông, Sáu Dơi, Tư Mẹo, Tư Lô…

Đây đều là những nghệ nhân tiền bối, có nhiều công lao đối với việc hình thành và phát triển làng hoa truyền thống này. Trong đó, gia đình ông Nguyễn Văn Lô (Tư Lô) có tới 8 anh chị em nối nghiệp làm nghề hoa kiểng.

Làng hoa Bà Bộ đã gắn liền với tết Nam bộ. Trước năm 1954, người trồng hoa dùng ghe xuồng chở hoa và cây trái ra đậu cặp bờ sông, trước khi đưa hàng lên đường Hàng Dương, gần nhà lồng chợ cổ hiện nay. Lúc bấy giờ, bến sông có tên là Le quai de Commerce, sau đổi thành bến Lê Lợi. Mãi đến năm 1958, cái tên “bến Lê Lợi” mới đổi thành “bến Ninh Kiều”.

Từ đó đến nay, Bà Bộ và Ninh Kiều như hình với bóng, hoa và tết như duyên tao ngộ. Hễ có tết là có hoa. Hoa trên bến, hoa dưới thuyền. Hoa theo dòng người đi vào thành phố, làm rạng rỡ khắp mọi nơi.

Nắm bắt thị trường để làm giàu

Làng hoa Bà Bộ chuyên khai thác các loài hoa và cây cảnh bản địa mà người miền Tây ưa chuộng như: mai vàng, cúc, vạn thọ, ngọc nữ, thược dược, trang, hồng, hoa giấy, hướng dương… Tuy nhiên, mấy năm gần đây, do có nhiều giống mới nhập về, màu sắc phong phú và hấp dẫn khiến cho một số giống cũ như vạn thọ ta, cúc vàng, mào gà, hướng dương… lần hồi bị quên lãng, buộc lòng bà con phải chạy theo giống mới (cát tường, dạ yến thảo, các loại kiểng treo) để thu hút khách.

Bà Nguyễn Thị Chợ, Phó chủ tịch UBND P.Long Tuyền, phấn khởi cho biết hiện làng nghề hoa kiểng Bà Bộ có 236 hộ sản xuất trên diện tích 18 ha, đa số đều có thu nhập khá so với các mô hình trồng trọt khác. Sau mỗi đợt tết, gia đình nào cũng kiếm từ vài ba triệu tới vài chục triệu. Trong số đó, không ít nhà vườn đã vươn lên thành tỉ phú nhờ những cây kiểng có giá trị nghệ thuật cao, đặc biệt là kiểng cổ thụ như mai vàng, nguyệt quế…

Kể từ khi con đường 91B đi ngang qua rạch Bà Bộ, nhiều công trình xây dựng đã lấn chiếm, khiến cho diện tích trồng hoa bị thu hẹp dần. Tuy nhiên, không ít gia đình vẫn cố giữ lại mảnh vườn, miếng ruộng để phát huy nghề truyền thống. Nhờ vậy mà làng hoa vẫn tồn tại và phát triển.

Để có được những chậu hoa đẹp mang ra chợ, người trồng đã phải tốn bao mồ hôi công sức và trải qua một quá trình lao động nghiêm túc. Mỗi loài hoa đều có “tính ý” khác nhau, người trồng phải biết để chăm sóc, nâng niu. Vậy mà những khi trái gió trở trời, chúng còn “nũng nịu” không chịu ra hoa hoặc bung nụ trước đêm giao thừa, khiến người trồng phải khóc dở.

Những ngày cuối năm, có dịp đi qua làng hoa kiểng Bà Bộ (Q.Bình Thủy, TP.Cần Thơ) sẽ cảm nhận hết vẻ mỹ miều của làng hoa có bề dày lịch sử trên 70 năm. Đây chính là làng hoa Bà Bộ, chuyên khai thác các loài hoa và cây cảnh bản địa mà người miền Tây ưa chuộng.

Nghề cha truyền con nối

Tuy không đa dạng và phong phú bằng làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp) hay Cái Mơn (Bến Tre) nhưng mỗi năm, làng hoa kiểng Bà Bộ đã góp phần làm đẹp cho đời với trên 300.000 giỏ hoa và cây cảnh các loại. Ông Tám Hoài (quê ở Nha Mân, Đồng Tháp) là người khởi xướng phong trào trồng hoa ở Bà Bộ, nay đã qua đời.

Năm 1940, ông Tám Hoài qua Cần Thơ lập nghiệp, có mang theo một số hạt giống trồng thử nghiệm, rồi dần dần phổ biến cho bà con. Thế hệ nối tiếp ông gồm có các ông Năm Bông, Sáu Dơi, Tư Mẹo, Tư Lô…

Đây đều là những nghệ nhân tiền bối, có nhiều công lao đối với việc hình thành và phát triển làng hoa truyền thống này. Trong đó, gia đình ông Nguyễn Văn Lô (Tư Lô) có tới 8 anh chị em nối nghiệp làm nghề hoa kiểng.

Làng hoa Bà Bộ đã gắn liền với tết Nam bộ. Trước năm 1954, người trồng hoa dùng ghe xuồng chở hoa và cây trái ra đậu cặp bờ sông, trước khi đưa hàng lên đường Hàng Dương, gần nhà lồng chợ cổ hiện nay. Lúc bấy giờ, bến sông có tên là Le quai de Commerce, sau đổi thành bến Lê Lợi. Mãi đến năm 1958, cái tên “bến Lê Lợi” mới đổi thành “bến Ninh Kiều”.

Từ đó đến nay, Bà Bộ và Ninh Kiều như hình với bóng, hoa và tết như duyên tao ngộ. Hễ có tết là có hoa. Hoa trên bến, hoa dưới thuyền. Hoa theo dòng người đi vào thành phố, làm rạng rỡ khắp mọi nơi.

Nắm bắt thị trường để làm giàu

Làng hoa Bà Bộ chuyên khai thác các loài hoa và cây cảnh bản địa mà người miền Tây ưa chuộng như: mai vàng, cúc, vạn thọ, ngọc nữ, thược dược, trang, hồng, hoa giấy, hướng dương… Tuy nhiên, mấy năm gần đây, do có nhiều giống mới nhập về, màu sắc phong phú và hấp dẫn khiến cho một số giống cũ như vạn thọ ta, cúc vàng, mào gà, hướng dương… lần hồi bị quên lãng, buộc lòng bà con phải chạy theo giống mới (cát tường, dạ yến thảo, các loại kiểng treo) để thu hút khách.

Bà Nguyễn Thị Chợ, Phó chủ tịch UBND P.Long Tuyền, phấn khởi cho biết hiện làng nghề hoa kiểng Bà Bộ có 236 hộ sản xuất trên diện tích 18 ha, đa số đều có thu nhập khá so với các mô hình trồng trọt khác. Sau mỗi đợt tết, gia đình nào cũng kiếm từ vài ba triệu tới vài chục triệu. Trong số đó, không ít nhà vườn đã vươn lên thành tỉ phú nhờ những cây kiểng có giá trị nghệ thuật cao, đặc biệt là kiểng cổ thụ như mai vàng, nguyệt quế…

Kể từ khi con đường 91B đi ngang qua rạch Bà Bộ, nhiều công trình xây dựng đã lấn chiếm, khiến cho diện tích trồng hoa bị thu hẹp dần. Tuy nhiên, không ít gia đình vẫn cố giữ lại mảnh vườn, miếng ruộng để phát huy nghề truyền thống. Nhờ vậy mà làng hoa vẫn tồn tại và phát triển.

Để có được những chậu hoa đẹp mang ra chợ, người trồng đã phải tốn bao mồ hôi công sức và trải qua một quá trình lao động nghiêm túc. Mỗi loài hoa đều có “tính ý” khác nhau, người trồng phải biết để chăm sóc, nâng niu. Vậy mà những khi trái gió trở trời, chúng còn “nũng nịu” không chịu ra hoa hoặc bung nụ trước đêm giao thừa, khiến người trồng phải khóc dở.

Làng Vĩnh Hòa, xã Hợp Thành, huyện Yên Thành (Nghệ An) nổi tiếng về nghề làm bánh chưng truyền thống. Nhờ nghề này, Vĩnh Hòa đã trở thành làng giàu có bậc nhất huyện Yên Thành.

Không ai nhớ rõ nghề bánh chưng ở Vĩnh Hòa (Hợp Thành, Yên Thành -Nghệ An) xuất hiện cụ thể vào thời gian nào, nhưng theo lời các cụ ông, cụ bà trong làng kể lại thì từ cái thời chiến tranh một số nhỏ lẻ các bà, các chị trong làng hàng ngày có làm vài ba chục chiếc gồng gánh mang ra chợ bán.
Do thời đó, lương thực bị cấm chế biến thành các loại bún, bánh. Vì thế, bánh chưng Vĩnh Hoà - (Hợp Thành – Yên Thành) bị ngừng một thời gian khá dài.

Sau thời kỳ mở cửa, nhân dân cả nước, cả tỉnh có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế. Là một vùng giáo toàn tòng, mà đặc thù là chạy chợ, buôn bán nhỏ, bà con Vĩnh Hoà quyết tâm khôi phục lại nghề làm bánh. Ban đầu là bánh chưng, bánh tét, sau do nhu cầu của khách hàng, nay Vĩnh Hoà còn có thêm bánh mật, bánh gai. Được biết, năm 2012 Vĩnh Hòa có 384 người tham gia làng nghề bún bánh với thu nhập bình quân đạt 24,7 triệu đồng/người/năm.

Vĩnh Hoà có 215 hộ dân thì có hơn 200 hộ làm bánh chưng. Dân làng không chỉ làm bánh chưng mấy ngày tết, ngày lễ, mà gói và bán bánh quanh năm. Khách hàng khắp mọi nơi tìm đến rất đông. Thương hiệu bánh chưng Vĩnh Hoà có uy tín là do bánh của làng không chỉ ngon, đẹp, mà còn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm 2004, tỉnh Nghệ An chính thức công nhận Vĩnh Hòa là làng nghề làm bánh chưng.

Bánh chưng Vĩnh Hoà chủ yếu gói bằng lá chuối. Gạo phải là nếp hoa vàng; thịt lợn, đậu xanh, hạt tiêu, hành làm nhân bánh luôn được các nhà chọn lựa kỹ càng. Bây giờ nhiều nơi nấu bánh bằng bếp điện, bằng than hay công nghệ nồi hơi, nhưng Vĩnh Hoà vẫn đun bằng củi - đó cũng là một trong những yếu tố làm cho bánh Vĩnh Hoà thơm ngon.

Ông Nguyễn Thọ - Phó Chủ tịch UBND xã Hợp Thành cho biết: Việc khôi phục làng nghề chế biến nông sản Vĩnh Hoà đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân. Trước hết, làng nghề đã giải quyết việc làm, ổn định đời sống, xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và cũng là động lực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Bên cạnh đó, việc khôi phục lại làng nghề thực sự đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của bà con giáo dân Vĩnh Hoà - vì đây là nghề được truyền từ đời cha, đời ông, rất được bà con đồng tình, hưởng ứng. Kinh tế phát triển, đường làng ngõ xóm phong quang, sạch đẹp. Không còn nhà tạm, nhà dột; Tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt, keo sơn. Đặc biệt, tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng năm sau cao hơn năm trước.

Về thăm Vĩnh Hoà vào những ngày cuối năm, mới thấy được không khí tấp nập, khẩn trương chuẩn bị cho Tết Quý Tỵ 2013. Đến nhà nào cũng thấy la liệt lá dong, lá chuối xanh, những bì đậu xanh, nếp trắng chất thành đống ở góc nhà... Chị Hoàng Thị Châu năm nay xấp xỉ tuổi 40 nhưng đã làm nghề từ thủa lên 5, lên 6.

Chị Châu kể: ở cái làng này, không ai là không có việc. Trẻ con một buổi đi học, buổi ở nhà lau lá, người già thì chẻ lạt, còn thanh niên nam, nữ đãi nếp, làm nhân, gói bánh, nấu bánh và đem đi nhập. Cứ theo vòng quay như vậy, ngày này qua tháng khác, làng bánh Vĩnh Hoà như càng nhộn nhịp thêm vì ngày hôm nay có nhà nhập được bánh ở tận Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, và cả ở Cửa Lò, Vinh.

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có rất nhiều cơ sở, làng nghề bánh chưng nhưng bánh chưng Vĩnh Hoà có hương vị riêng. Trò chuyện với anh Trần Quốc Khánh – một giáo dân có “thâm niên” hơn 20 năm làm nghề gói bánh chưng, được anh tâm sự rằng, không muốn chọn nghề nào khác bởi bản thân anh yêu thích công việc này, hơn nữa, mỗi lần ngồi gói bánh chưng, anh có cảm giác như mình đang gói cả quê hương, gói cả cái tình của người quê vào mỗi chiếc bánh.

Tôi cười, bảo anh nói sao văn vẻ thế, nhưng ngẫm ra mới thấy anh Khánh nói đúng thật. Bởi bánh chưng xanh được làm từ nguyên liệu chính là nếp lúa – hương đồng gió nội, có nhân đậu xanh, thêm miếng thịt ba chỉ thấm đẫm hành khô, hạt tiêu… Tất cả được bàn tay của người dân lao động gói lại bằng lá dong, rồi đến một lớp lá chuối, cuối cùng bọc bên ngoài thêm một lớp lá dong xanh. Cặp bánh không chỉ để cúng gia tiên mà còn cúng trời đất, cúng vua bếp, cúng thần đất thần tài nên bánh phải thơm ngon tinh khiết.

Với người dân Vĩnh Hòa, bánh chưng đã trở thành món ăn quen thuộc. Trong nhà lúc nào cũng sẵn, hễ có khách đến chơi, là đãi bánh chưng, nước chè xanh ... và xung quanh câu chuyện, cuối cùng lại trở về với cái bánh chưng làng mình đã đi được tới những đâu, hay Tết năm nay làng mình sẽ gói được bao nhiêu bánh.

Từ 4, 5 giờ chiều, cả làng nhà nhà tập trung gói bánh cho đến 8 giời tối là nhóm lò, nấu bánh; 1- 2 giờ sáng vớt bánh, khoảng từ 4 – 5 giờ cả làng thức giấc gọi nhau í ới đi bán, nhập bánh. Không khí trong làng lúc nào cũng vui như Tết.

Trong ánh sáng bập bùng, gương mặt chị Châu như vui hơn: Mỗi năm Tết đến, chúng tôi phải làm cả ngày, cả đêm nhưng quen rồi nên không thấy mệt, càng nhiều người đặt bánh càng thấy vui. Ngày thường thì khoảng dăm yến, nhưng Tết thì cứ phải vài tấn nếp. Năm nay, nếu có nhu cầu đặt bánh chưng, em cứ gọi điện cho chị, sẽ có người đem vào tận nơi. Chị Châu vừa cười nói, vừa nhanh tay đưa cho tôi số điện thoại và còn dặn với theo: Nhớ là bánh chưng nhà Khánh – Châu nhé!

Chia tay Vĩnh Hoà, trong chúng tôi ai cũng thấy vui lây với niềm vui của bà con giáo dân làng bánh. Và chúng tôi tin chắc rằng bánh chưng Vĩnh Hoà sẽ trở thành “đặc sản” được biết đến như cháo lươn Vinh, thịt me Nam Nghĩa, tương Nam Đàn, kẹo lạc Hưng Châu ... khi có điều kiện về với Yên Thành, Nghệ An!

Korean Air! - Tổng hợp từ Nghệ An Online, Danviet và nhiều nguồn ảnh khác

Làng Vĩnh Hòa, xã Hợp Thành, huyện Yên Thành (Nghệ An) nổi tiếng về nghề làm bánh chưng truyền thống. Nhờ nghề này, Vĩnh Hòa đã trở thành làng giàu có bậc nhất huyện Yên Thành.

Không ai nhớ rõ nghề bánh chưng ở Vĩnh Hòa (Hợp Thành, Yên Thành -Nghệ An) xuất hiện cụ thể vào thời gian nào, nhưng theo lời các cụ ông, cụ bà trong làng kể lại thì từ cái thời chiến tranh một số nhỏ lẻ các bà, các chị trong làng hàng ngày có làm vài ba chục chiếc gồng gánh mang ra chợ bán.
Do thời đó, lương thực bị cấm chế biến thành các loại bún, bánh. Vì thế, bánh chưng Vĩnh Hoà - (Hợp Thành – Yên Thành) bị ngừng một thời gian khá dài.

Sau thời kỳ mở cửa, nhân dân cả nước, cả tỉnh có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế. Là một vùng giáo toàn tòng, mà đặc thù là chạy chợ, buôn bán nhỏ, bà con Vĩnh Hoà quyết tâm khôi phục lại nghề làm bánh. Ban đầu là bánh chưng, bánh tét, sau do nhu cầu của khách hàng, nay Vĩnh Hoà còn có thêm bánh mật, bánh gai. Được biết, năm 2012 Vĩnh Hòa có 384 người tham gia làng nghề bún bánh với thu nhập bình quân đạt 24,7 triệu đồng/người/năm.

Vĩnh Hoà có 215 hộ dân thì có hơn 200 hộ làm bánh chưng. Dân làng không chỉ làm bánh chưng mấy ngày tết, ngày lễ, mà gói và bán bánh quanh năm. Khách hàng khắp mọi nơi tìm đến rất đông. Thương hiệu bánh chưng Vĩnh Hoà có uy tín là do bánh của làng không chỉ ngon, đẹp, mà còn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm 2004, tỉnh Nghệ An chính thức công nhận Vĩnh Hòa là làng nghề làm bánh chưng.

Bánh chưng Vĩnh Hoà chủ yếu gói bằng lá chuối. Gạo phải là nếp hoa vàng; thịt lợn, đậu xanh, hạt tiêu, hành làm nhân bánh luôn được các nhà chọn lựa kỹ càng. Bây giờ nhiều nơi nấu bánh bằng bếp điện, bằng than hay công nghệ nồi hơi, nhưng Vĩnh Hoà vẫn đun bằng củi - đó cũng là một trong những yếu tố làm cho bánh Vĩnh Hoà thơm ngon.

Ông Nguyễn Thọ - Phó Chủ tịch UBND xã Hợp Thành cho biết: Việc khôi phục làng nghề chế biến nông sản Vĩnh Hoà đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân. Trước hết, làng nghề đã giải quyết việc làm, ổn định đời sống, xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và cũng là động lực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Bên cạnh đó, việc khôi phục lại làng nghề thực sự đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của bà con giáo dân Vĩnh Hoà - vì đây là nghề được truyền từ đời cha, đời ông, rất được bà con đồng tình, hưởng ứng. Kinh tế phát triển, đường làng ngõ xóm phong quang, sạch đẹp. Không còn nhà tạm, nhà dột; Tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt, keo sơn. Đặc biệt, tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng năm sau cao hơn năm trước.

Về thăm Vĩnh Hoà vào những ngày cuối năm, mới thấy được không khí tấp nập, khẩn trương chuẩn bị cho Tết Quý Tỵ 2013. Đến nhà nào cũng thấy la liệt lá dong, lá chuối xanh, những bì đậu xanh, nếp trắng chất thành đống ở góc nhà... Chị Hoàng Thị Châu năm nay xấp xỉ tuổi 40 nhưng đã làm nghề từ thủa lên 5, lên 6.

Chị Châu kể: ở cái làng này, không ai là không có việc. Trẻ con một buổi đi học, buổi ở nhà lau lá, người già thì chẻ lạt, còn thanh niên nam, nữ đãi nếp, làm nhân, gói bánh, nấu bánh và đem đi nhập. Cứ theo vòng quay như vậy, ngày này qua tháng khác, làng bánh Vĩnh Hoà như càng nhộn nhịp thêm vì ngày hôm nay có nhà nhập được bánh ở tận Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, và cả ở Cửa Lò, Vinh.

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có rất nhiều cơ sở, làng nghề bánh chưng nhưng bánh chưng Vĩnh Hoà có hương vị riêng. Trò chuyện với anh Trần Quốc Khánh – một giáo dân có “thâm niên” hơn 20 năm làm nghề gói bánh chưng, được anh tâm sự rằng, không muốn chọn nghề nào khác bởi bản thân anh yêu thích công việc này, hơn nữa, mỗi lần ngồi gói bánh chưng, anh có cảm giác như mình đang gói cả quê hương, gói cả cái tình của người quê vào mỗi chiếc bánh.

Tôi cười, bảo anh nói sao văn vẻ thế, nhưng ngẫm ra mới thấy anh Khánh nói đúng thật. Bởi bánh chưng xanh được làm từ nguyên liệu chính là nếp lúa – hương đồng gió nội, có nhân đậu xanh, thêm miếng thịt ba chỉ thấm đẫm hành khô, hạt tiêu… Tất cả được bàn tay của người dân lao động gói lại bằng lá dong, rồi đến một lớp lá chuối, cuối cùng bọc bên ngoài thêm một lớp lá dong xanh. Cặp bánh không chỉ để cúng gia tiên mà còn cúng trời đất, cúng vua bếp, cúng thần đất thần tài nên bánh phải thơm ngon tinh khiết.

Với người dân Vĩnh Hòa, bánh chưng đã trở thành món ăn quen thuộc. Trong nhà lúc nào cũng sẵn, hễ có khách đến chơi, là đãi bánh chưng, nước chè xanh ... và xung quanh câu chuyện, cuối cùng lại trở về với cái bánh chưng làng mình đã đi được tới những đâu, hay Tết năm nay làng mình sẽ gói được bao nhiêu bánh.

Từ 4, 5 giờ chiều, cả làng nhà nhà tập trung gói bánh cho đến 8 giời tối là nhóm lò, nấu bánh; 1- 2 giờ sáng vớt bánh, khoảng từ 4 – 5 giờ cả làng thức giấc gọi nhau í ới đi bán, nhập bánh. Không khí trong làng lúc nào cũng vui như Tết.

Trong ánh sáng bập bùng, gương mặt chị Châu như vui hơn: Mỗi năm Tết đến, chúng tôi phải làm cả ngày, cả đêm nhưng quen rồi nên không thấy mệt, càng nhiều người đặt bánh càng thấy vui. Ngày thường thì khoảng dăm yến, nhưng Tết thì cứ phải vài tấn nếp. Năm nay, nếu có nhu cầu đặt bánh chưng, em cứ gọi điện cho chị, sẽ có người đem vào tận nơi. Chị Châu vừa cười nói, vừa nhanh tay đưa cho tôi số điện thoại và còn dặn với theo: Nhớ là bánh chưng nhà Khánh – Châu nhé!

Chia tay Vĩnh Hoà, trong chúng tôi ai cũng thấy vui lây với niềm vui của bà con giáo dân làng bánh. Và chúng tôi tin chắc rằng bánh chưng Vĩnh Hoà sẽ trở thành “đặc sản” được biết đến như cháo lươn Vinh, thịt me Nam Nghĩa, tương Nam Đàn, kẹo lạc Hưng Châu ... khi có điều kiện về với Yên Thành, Nghệ An!

Korean Air! - Tổng hợp từ Nghệ An Online, Danviet và nhiều nguồn ảnh khác

Muốn thăm “biển miệt vườn” để bình yên ngắm mây trời, thong thả dạo bước, lắng nghe từng hạt cát mịn êm chảy qua chân và ngó biển sinh sôi, coi “nhà vườn” nuôi trồng trên biển, xin mời về đây: biển Gò Công.

Nếu định đến tắm biển Tân Thành (thuộc huyện Gò Công Đông- Tiền Giang), bạn hẳn sẽ thất vọng, vì bãi biển… đen thui. Nhưng đây thật sự là một trong những bãi biển cát đen đẹp nhất Việt Nam. Khi bạn đặt chân xuống cát, sẽ cảm nhận được lớp cát mềm mịn êm nhung, và cứ vậy… đi hoài ra phía biển giăng giăng sóng bạc.

Bãi biển Gò Công không thoai thoải mà phẳng như mặt ao, kéo dài ra hàng cây số. Bạn cứ việc tung tăng đi trên cát, vọc cát, vọc nước và ngơ ngẩn ngó những chòi canh nghêu chênh vênh giữa biển trời.
Đứng chờ hồi lâu mới làm quen được với anh Nguyễn Thanh Danh đang bận rộn nói chuyện điện thoại về giá nghêu, giờ giao nghêu… Anh vui vẻ cho biết: Cũng được lắm. Nghêu năm nay không bị bệnh hoạn như năm trước, hiện giá nghêu từ 30.000- 34.000 đ/kg loại 30- 40 con/kg.

Nếu tính trung bình nuôi đạt 15– 20 tấn/ha, thì người nuôi có thể lời tới vài trăm triệu đồng/ha. Nhắc lại “chuyện xưa”, anh Danh nói, hồi trước giờ tự nhiên đã có con nghêu sinh sống ở biển Tân Thành này rồi. Nghêu Gò Công nổi tiếng ngọt, mềm lại thơm. Nhưng hồi đó giá nghêu cũng bấp bênh, chỉ vài ba ngàn đồng một ký, là món ăn “con nhà nghèo” nấu canh giá hẹ.

Chỉ từ khi nghêu được bước vào thị trường xuất khẩu thì giá nghêu mới tăng vùn vụt, lên tới vài chục ngàn đồng một ký như bây giờ và người khá giả mới dám ăn nghêu. Cũng từ đó, dân miệt biển Gò Công mới nghĩ đến chuyện nuôi nghêu- để trở thành một trong những nơi có nghề nuôi nghêu sớm nhất.

Vùng ven biển miền Tây ít sóng gió, đáy cát pha bùn, nhiều thức ăn, nên từ Tiền Giang qua Bến Tre đến Sóc Trăng, Cà Mau… đều là nơi nghêu ưa trú ngụ. Một trong những vùng nuôi nghêu lớn nhất và có sản lượng cao nhất phải kể đến biển Gò Công Đông của Tiền Giang.

Ở đây, nhiều người dân coi “con nghêu là đầu cơ nghiệp”, nổi tiếng với “kiện tướng nuôi nghêu” Trần Văn Chỉ với sân nghêu hàng vài hecta, hay “vua nghêu giống” Trần Văn Vinh thành công trong sinh sản nhân tạo nghêu, cung cấp cả tỷ con nghêu giống mỗi năm.

Theo số liệu chúng tôi có được, huyện Gò Công Đông hiện có trên 2.000ha biển nuôi nghêu, trong đó, có 350ha là bãi sinh nghêu giống tự nhiên tập trung tại xã Tân Thành, ven vàm Cửa Tiểu. Hàng năm cung ứng trên 20.000 tấn nghêu cho thị trường.

Theo anh Danh, nuôi nghêu cực kỳ đơn giản. Chỉ cần mua nghêu giống về thả xuống bãi biển vào khoảng tháng 4 rồi thu hoạch vào cuối năm sau. Nghêu “nhướng” nhỏ xíu xiu, tới cả ngàn con/kg, nuôi năm rưỡi, đạt thương phẩm 30- 40 con/kg.

Biển Tân Thành có nguồn thức ăn trời cho, người nuôi nghêu chẳng tốn đồng thức ăn nào (lẽ ra phải gọi là người giữ nghêu mới đúng), chi phí tốn kém nhất là mua nghêu giống, giăng lưới, cất chòi, thuê người giữ nghêu… Cứ vậy mà trời biển nuôi dùm.

< Nghêu giống.

Nói vậy, chứ hiện nay nghề nuôi nghêu cũng lắm khó khăn. Chú Lê Văn Tấn- cũng là người dân tại đây cho biết: giá giống tăng cao, nghêu bệnh chết nhiều, vài năm gần đây, cứ khoảng tháng Chạp đến tháng 3 năm sau, nghêu thường chết hàng loạt mà chưa rõ nguyên nhân, có hộ trắng tay.

Người nuôi thì cho là do ô nhiễm nguồn nước. Biển Gò Công Đông thật sự là biển của làm ăn. Với gần 12.000km2 mặt biển, đây là ngư trường giàu tôm cá, thuận lợi nuôi trồng thủy- hải sản có giá trị cao như nghêu, sò huyết, tôm sú, tôm thẻ,…

Chú Tấn cho biết, hàng ngày chú tranh thủ thả vài trăm mét lưới đánh cá ven bờ, cứ một hai ngày là được vài ba con cá chét hoặc cá chẽm cỡ 3- 4 kg/con. Hiện giá cá chét tươi tại đây từ 150.000- 200.000 đ/kg, còn khô cá chét không dưới 500.000 đ/kg. Cá chẽm rẻ hơn nhưng cũng từ 80.000- 120.000 đ/kg.

Hai mẹ con chị Nhan đang đi thong thả trên bãi biển, tay cắp chiếc rổ nhỏ, trông cứ tưởng như đi chơi, nhưng thật ra là đang đi bắt con móng tay. “Đồ nghề” của mẹ con chị rất đơn giản, chỉ là một que tăm tre dài chừng 20cm, thêm một bịt vôi ăn trầu nhỏ xíu.

Vừa đi vừa giậm giậm chân, thấy chút bọt khí nổi lên là biết hang của móng tay, chấm khẽ chút vôi, chỉ vài giây sau, móng tay từ trong cát trồi lên. Chị Nhan nói ngày nào cũng đi bắt từ sáng khi nước ròng cho tới trưa nước lớn ngập bãi, cũng được 1- 2kg. Móng tay ăn ngon, thịt mềm, ngọt, nhưng giá khá mềm, chỉ 50.000 đ/kg.

< Du khách thích thú chạy chân trần trên bãi cát đen.

Biển Gò Công còn có món ăn đặc biệt đãi khách phương xa là con sam. Nếu từng nghe chuyện cổ tích về đôi vợ chồng sam gắn bó không rời, thì bạn rất dễ… thất vọng, vì hình dáng con sam rất xấu.

Thân có mai to đầy gai góc, màu xanh xám xịt và chiếc đuôi dài nhọn hoắt. Sam mùa này được cho là đầy trứng béo bùi, giá chỉ 10.000 đ/con. Nhưng nghe đâu con sam cũng có chất cực độc như cá nóc nếu làm không khéo, nên chuyện mua bán sam để ăn cũng cần được xem xét kỹ ở các điểm du lịch.

Từ Mỹ Tho, trên Quốc lộ 1, rẽ vào Quốc lộ 50 chừng 50km là tới Gò Công và đi thêm hơn chục cây số nữa để tới biển Tân Thành. Không chỉ có “biển một bên và… nghêu một bên” làm mềm lòng du khách, Gò Công còn là vùng đất của rất nhiều di tích lịch sử.

< Những con ốc nhỏ bám đầy trên các cọc gỗ và đầy bãi biển Gò Công.

Đây là vùng đất đã sinh ra 2 bậc mẫu nghi thiên hạ là Hoàng Thái hậu Từ Dũ và Hoàng hậu Nam Phương. Đồng thời đây cũng là quê hương của các anh hùng dân tộc Trương Định, Võ Tánh. Chúng tôi hẹn sẽ cùng bạn trở lại Gò Công với các di tích lịch sử của chốn này.

Con đường từ Sài Gòn đi Gò Công dài khoảng 60 km, qua bắc Mỹ Lợi (ngày xưa gọi bắc Cầu Nổi). Từ thị xã Gò Công, vượt thêm 16 km nữa để tới Tân Thành. Đây là đoạn đường hấp dẫn đối với bất cứ du khách nào.

Đầu tiên là bạn sẽ có dịp ghé thăm Khu di tích Lăng Hoàng Gia rộng khoảng 4.000 m2, với nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Nguyễn Thị Hằng (Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức). Kế đó là xã Hòa Nghị. Ngoài cây dầu cổ thụ sống mấy trăm năm, nơi đây còn được mệnh danh là “quê hương trái sơ ri”.

< Chú Tấn: Bãi nuôi nghêu kéo dài tới xa tuốt ngoài kia hàng cây số.

Tiếp theo, bạn đến thăm đền thờ Trương Định ở xã Tân Hòa - nơi khởi binh chống Pháp của người anh hùng dân tộc lừng lẫy với địa danh “Đám lá tối trời” mà thực dân và tay sai khi nghe tới đều rụng rời tay chân, khiếp đảm tinh thần. Thưởng thức các món đặc sản Tân Hòa như bánh giá, mắm còng và mắm tôm chua với rượu sơ ri xong, bạn sẽ rong xe tới biển Tân Thành.

Biển Tân Thành dài khoảng 7 km. Riêng Khu du lịch biển Tân Thành đã được làm bờ kè dài gần 300 m. Bờ kè tuy đẹp, giúp ngăn chặn những cơn sóng dữ mùa gió chướng làm sạt lở bờ nhưng lại khiến nó trở thành bờ biển “chết”, vì chẳng mấy du khách đoái hoài tới chuyện đùa giỡn thỏa thuê với con sóng từ đại dương ùa vào. Tại đây, nhìn ra xa thấy những chiếc chòi giữ nghêu cao lênh khênh trên sóng biển. Nhưng, điều hấp dẫn du khách đến với Tân Thành chính là đặc sản biển.

Korean Air! - Theo Vĩnh Long Online, báo Hậu Giang, internet

Muốn thăm “biển miệt vườn” để bình yên ngắm mây trời, thong thả dạo bước, lắng nghe từng hạt cát mịn êm chảy qua chân và ngó biển sinh sôi, coi “nhà vườn” nuôi trồng trên biển, xin mời về đây: biển Gò Công.

Nếu định đến tắm biển Tân Thành (thuộc huyện Gò Công Đông- Tiền Giang), bạn hẳn sẽ thất vọng, vì bãi biển… đen thui. Nhưng đây thật sự là một trong những bãi biển cát đen đẹp nhất Việt Nam. Khi bạn đặt chân xuống cát, sẽ cảm nhận được lớp cát mềm mịn êm nhung, và cứ vậy… đi hoài ra phía biển giăng giăng sóng bạc.

Bãi biển Gò Công không thoai thoải mà phẳng như mặt ao, kéo dài ra hàng cây số. Bạn cứ việc tung tăng đi trên cát, vọc cát, vọc nước và ngơ ngẩn ngó những chòi canh nghêu chênh vênh giữa biển trời.
Đứng chờ hồi lâu mới làm quen được với anh Nguyễn Thanh Danh đang bận rộn nói chuyện điện thoại về giá nghêu, giờ giao nghêu… Anh vui vẻ cho biết: Cũng được lắm. Nghêu năm nay không bị bệnh hoạn như năm trước, hiện giá nghêu từ 30.000- 34.000 đ/kg loại 30- 40 con/kg.

Nếu tính trung bình nuôi đạt 15– 20 tấn/ha, thì người nuôi có thể lời tới vài trăm triệu đồng/ha. Nhắc lại “chuyện xưa”, anh Danh nói, hồi trước giờ tự nhiên đã có con nghêu sinh sống ở biển Tân Thành này rồi. Nghêu Gò Công nổi tiếng ngọt, mềm lại thơm. Nhưng hồi đó giá nghêu cũng bấp bênh, chỉ vài ba ngàn đồng một ký, là món ăn “con nhà nghèo” nấu canh giá hẹ.

Chỉ từ khi nghêu được bước vào thị trường xuất khẩu thì giá nghêu mới tăng vùn vụt, lên tới vài chục ngàn đồng một ký như bây giờ và người khá giả mới dám ăn nghêu. Cũng từ đó, dân miệt biển Gò Công mới nghĩ đến chuyện nuôi nghêu- để trở thành một trong những nơi có nghề nuôi nghêu sớm nhất.

Vùng ven biển miền Tây ít sóng gió, đáy cát pha bùn, nhiều thức ăn, nên từ Tiền Giang qua Bến Tre đến Sóc Trăng, Cà Mau… đều là nơi nghêu ưa trú ngụ. Một trong những vùng nuôi nghêu lớn nhất và có sản lượng cao nhất phải kể đến biển Gò Công Đông của Tiền Giang.

Ở đây, nhiều người dân coi “con nghêu là đầu cơ nghiệp”, nổi tiếng với “kiện tướng nuôi nghêu” Trần Văn Chỉ với sân nghêu hàng vài hecta, hay “vua nghêu giống” Trần Văn Vinh thành công trong sinh sản nhân tạo nghêu, cung cấp cả tỷ con nghêu giống mỗi năm.

Theo số liệu chúng tôi có được, huyện Gò Công Đông hiện có trên 2.000ha biển nuôi nghêu, trong đó, có 350ha là bãi sinh nghêu giống tự nhiên tập trung tại xã Tân Thành, ven vàm Cửa Tiểu. Hàng năm cung ứng trên 20.000 tấn nghêu cho thị trường.

Theo anh Danh, nuôi nghêu cực kỳ đơn giản. Chỉ cần mua nghêu giống về thả xuống bãi biển vào khoảng tháng 4 rồi thu hoạch vào cuối năm sau. Nghêu “nhướng” nhỏ xíu xiu, tới cả ngàn con/kg, nuôi năm rưỡi, đạt thương phẩm 30- 40 con/kg.

Biển Tân Thành có nguồn thức ăn trời cho, người nuôi nghêu chẳng tốn đồng thức ăn nào (lẽ ra phải gọi là người giữ nghêu mới đúng), chi phí tốn kém nhất là mua nghêu giống, giăng lưới, cất chòi, thuê người giữ nghêu… Cứ vậy mà trời biển nuôi dùm.

< Nghêu giống.

Nói vậy, chứ hiện nay nghề nuôi nghêu cũng lắm khó khăn. Chú Lê Văn Tấn- cũng là người dân tại đây cho biết: giá giống tăng cao, nghêu bệnh chết nhiều, vài năm gần đây, cứ khoảng tháng Chạp đến tháng 3 năm sau, nghêu thường chết hàng loạt mà chưa rõ nguyên nhân, có hộ trắng tay.

Người nuôi thì cho là do ô nhiễm nguồn nước. Biển Gò Công Đông thật sự là biển của làm ăn. Với gần 12.000km2 mặt biển, đây là ngư trường giàu tôm cá, thuận lợi nuôi trồng thủy- hải sản có giá trị cao như nghêu, sò huyết, tôm sú, tôm thẻ,…

Chú Tấn cho biết, hàng ngày chú tranh thủ thả vài trăm mét lưới đánh cá ven bờ, cứ một hai ngày là được vài ba con cá chét hoặc cá chẽm cỡ 3- 4 kg/con. Hiện giá cá chét tươi tại đây từ 150.000- 200.000 đ/kg, còn khô cá chét không dưới 500.000 đ/kg. Cá chẽm rẻ hơn nhưng cũng từ 80.000- 120.000 đ/kg.

Hai mẹ con chị Nhan đang đi thong thả trên bãi biển, tay cắp chiếc rổ nhỏ, trông cứ tưởng như đi chơi, nhưng thật ra là đang đi bắt con móng tay. “Đồ nghề” của mẹ con chị rất đơn giản, chỉ là một que tăm tre dài chừng 20cm, thêm một bịt vôi ăn trầu nhỏ xíu.

Vừa đi vừa giậm giậm chân, thấy chút bọt khí nổi lên là biết hang của móng tay, chấm khẽ chút vôi, chỉ vài giây sau, móng tay từ trong cát trồi lên. Chị Nhan nói ngày nào cũng đi bắt từ sáng khi nước ròng cho tới trưa nước lớn ngập bãi, cũng được 1- 2kg. Móng tay ăn ngon, thịt mềm, ngọt, nhưng giá khá mềm, chỉ 50.000 đ/kg.

< Du khách thích thú chạy chân trần trên bãi cát đen.

Biển Gò Công còn có món ăn đặc biệt đãi khách phương xa là con sam. Nếu từng nghe chuyện cổ tích về đôi vợ chồng sam gắn bó không rời, thì bạn rất dễ… thất vọng, vì hình dáng con sam rất xấu.

Thân có mai to đầy gai góc, màu xanh xám xịt và chiếc đuôi dài nhọn hoắt. Sam mùa này được cho là đầy trứng béo bùi, giá chỉ 10.000 đ/con. Nhưng nghe đâu con sam cũng có chất cực độc như cá nóc nếu làm không khéo, nên chuyện mua bán sam để ăn cũng cần được xem xét kỹ ở các điểm du lịch.

Từ Mỹ Tho, trên Quốc lộ 1, rẽ vào Quốc lộ 50 chừng 50km là tới Gò Công và đi thêm hơn chục cây số nữa để tới biển Tân Thành. Không chỉ có “biển một bên và… nghêu một bên” làm mềm lòng du khách, Gò Công còn là vùng đất của rất nhiều di tích lịch sử.

< Những con ốc nhỏ bám đầy trên các cọc gỗ và đầy bãi biển Gò Công.

Đây là vùng đất đã sinh ra 2 bậc mẫu nghi thiên hạ là Hoàng Thái hậu Từ Dũ và Hoàng hậu Nam Phương. Đồng thời đây cũng là quê hương của các anh hùng dân tộc Trương Định, Võ Tánh. Chúng tôi hẹn sẽ cùng bạn trở lại Gò Công với các di tích lịch sử của chốn này.

Con đường từ Sài Gòn đi Gò Công dài khoảng 60 km, qua bắc Mỹ Lợi (ngày xưa gọi bắc Cầu Nổi). Từ thị xã Gò Công, vượt thêm 16 km nữa để tới Tân Thành. Đây là đoạn đường hấp dẫn đối với bất cứ du khách nào.

Đầu tiên là bạn sẽ có dịp ghé thăm Khu di tích Lăng Hoàng Gia rộng khoảng 4.000 m2, với nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Nguyễn Thị Hằng (Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức). Kế đó là xã Hòa Nghị. Ngoài cây dầu cổ thụ sống mấy trăm năm, nơi đây còn được mệnh danh là “quê hương trái sơ ri”.

< Chú Tấn: Bãi nuôi nghêu kéo dài tới xa tuốt ngoài kia hàng cây số.

Tiếp theo, bạn đến thăm đền thờ Trương Định ở xã Tân Hòa - nơi khởi binh chống Pháp của người anh hùng dân tộc lừng lẫy với địa danh “Đám lá tối trời” mà thực dân và tay sai khi nghe tới đều rụng rời tay chân, khiếp đảm tinh thần. Thưởng thức các món đặc sản Tân Hòa như bánh giá, mắm còng và mắm tôm chua với rượu sơ ri xong, bạn sẽ rong xe tới biển Tân Thành.

Biển Tân Thành dài khoảng 7 km. Riêng Khu du lịch biển Tân Thành đã được làm bờ kè dài gần 300 m. Bờ kè tuy đẹp, giúp ngăn chặn những cơn sóng dữ mùa gió chướng làm sạt lở bờ nhưng lại khiến nó trở thành bờ biển “chết”, vì chẳng mấy du khách đoái hoài tới chuyện đùa giỡn thỏa thuê với con sóng từ đại dương ùa vào. Tại đây, nhìn ra xa thấy những chiếc chòi giữ nghêu cao lênh khênh trên sóng biển. Nhưng, điều hấp dẫn du khách đến với Tân Thành chính là đặc sản biển.

Korean Air! - Theo Vĩnh Long Online, báo Hậu Giang, internet

Từ nhiều thế kỷ trước, Hòn Sơn Rái nằm giữa Hòn Tre đã là trung tâm của huyện và quần đảo Nam Du bốn bề sóng biển. Từ năm 1983 đến nay, xã hòn này có tên Lại Sơn, thuộc huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, cách Rạch Giá hơn 50 km đường biển.

< Hòn Sơn Rái nhìn trên tàu.

Nằm trong khu vực tam giác biển Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc, trước đây nơi này được thuyền buôn các nơi lui tới tấp nập. Các mặt hàng được ưa chuộng nhất là cá khô, mắm ruốc, hải sâm, bóng cá, đồi mồi, đặc biệt là nước mắm…

< Tàu vào Bãi Nhà, thuyền nhỏ túa ra đón.

Từ bến cảng Rạch Giá, vượt biển thẳng hướng Tây 28 km là đến Hòn Tre, từ đó đi chếch về hướng Nam thêm 25 km nữa là đến Bãi Nam của hòn Sơn Rái.

Sơn Rái hôm nay có hơn 800 hộ với trên 9.000 nhân khẩu. Ngoài những di tích văn hóa lịch sử có giá trị như miếu bà Chúa Hòn, đền thờ Nam Hải Đại tướng quân và đình Nguyễn Trung Trực có kiến trúc mang đậm dấu ấn Đông phương, nơi đây còn nhiều bãi tắm đẹp, thu hút du khách đến mở rộng tầm nhìn nước biển xanh trong màu ngọc bích, thưởng thức gió biển mát rượi, nghe tiếng chuông chùa Hải Sơn Tự ngân nga để lòng được thanh thản, quên đi những ngày lao động vất vả đã qua.

Cát ở bãi Thiên Tuế trắng mịn như pha lê. Bên bãi Nhà, trên đỉnh cao là lăng Ông Nam Hải nằm uy nghi trước biển như tấm lá chắn vô hình chở che cho những ngư phủ gặp khó khăn trên biển cả. Phía trái Sơn Rái còn có bãi Giếng nhìn ra biển và ở đó có một khối đá to như đón chào du khách phương xa. Tắm biển xong, khách có thể thưởng thức nước dừa xứ biển trồng trên đồi cao có vị ngọt không thua nước dừa xiêm Bến Tre.

Từ lâu, dân trên đảo thường tập hợp lại thành những làng nghề trên biển. Thuở xưa, tôm cá bắt được chỉ đủ tiêu dùng. Dần dà, họ đã biết tích trữ thực phẩm phòng khi có mưa bão, dông tố kéo dài bằng cách chế biến cá bạc má, cá mòi, cá ba thú… theo dạng khô hoặc xếp vào thùng hoặc vỉ tre, sau đó đem hấp chín như các loại cá.

Tại vùng biển đảo, cư dân địa phương thường hát:
Để cho đôi trẻ nên duyên,
Lão ông thách cưới một thiên cá mòi.

< Đỉnh Ma Thiên Lãnh trên hòn Sơn Rái.

Một số bô lão địa phương kể rằng thiên nhiên đã ban tặng cho hòn Sơn Rái nguồn cá nhỏ nổi theo đàn, nhưng thịt bở, ít xương nên bà con đã sáng tạo ra cách làm nước mắm.

Các gia đình cứ cho cá ướp vào lu, hũ, khạp đem phơi nắng rồi khuấy đều, đậy nắp lại. Vài tháng sau họ đem ra nấu, lọc lấy nước mắm, còn xác cá thì bỏ đi.

Đối với sản vật nổi tiếng của địa phương, không biết từ bao giờ trong dân gian đã truyền tụng câu ca dao:

Nước mắm hòn dầm con cá bẹ,
Bởi mê nước mắm hòn, em trốn mẹ theo anh.

Câu ca dao trên nêu lên tính chất độc đáo của loại nước mắm hòn có nguồn gốc chính hiệu ở hòn Sơn Rái. Vào đầu thế kỷ XX, hòn Sơn Rái là nơi sản xuất nhiều loại nước mắm có tiếng thơm ngon và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, hoàn toàn không thua kém nước mắm Phú Quốc. Đã có nhiều thương nhân vận chuyển nước mắm đi bán ở Cần Vọt (Kampot, Campuchia) và các nơi trong nước.

< Du khách tham quan quy trình ủ nước mắm hòn.

Cơ sở sản xuất nước mắm hòn Sơn Rái có tiếng lâu đời nhất là Đức Ngươn, trước đây do ông Phan Văn Khôn (Mười Khôn) làm chủ. Hiện nay ông đã già yếu nên giao lại cho con là Phạm Văn Ngoan nối nghiệp. Anh Triệu Hoàng Phương, chủ doanh nghiệp Phương Khanh, hoạt động đã hơn 15 năm, cho hay rằng để chủ động về nguồn nguyên liệu, hầu hết các chủ cơ sở sản xuất nước mắm đều có tàu đánh bắt cá cơm, mỗi chiếc trị giá hàng trăm triệu đồng.

< Nước mắm cá cơm hòn Sơn Rái với hương vị đậm đà, khó quên.

Đánh bắt cá cơm phải theo mùa, từ tháng 7 đến tháng 10 Âm lịch là mùa chính, ở gần hòn Củ Tron, quần đảo Nam Du hoặc hòn Thơm (Phú Quốc). Nước mắm hòn loại cốt nhĩ 40-41 độ đạm giá chỉ 40.000 đồng một lít, thấp hơn nước mắm Phú Quốc chừng 15.000 đồng.

Khách du lịch, đặc biệt là Tây ba lô, mỗi lần đến thăm hòn Sơn Rái đều yêu cầu được tham quan các cơ sở làm nước mắm. Tại đó, có người dùng ngay nước mắm chấm với các món ăn như tôm, ghẹ luộc, mực hấp gừng một cách ngon lành.

Korean Air! - Theo Nguyễn Hà Phương (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần), ảnh internet

Từ nhiều thế kỷ trước, Hòn Sơn Rái nằm giữa Hòn Tre đã là trung tâm của huyện và quần đảo Nam Du bốn bề sóng biển. Từ năm 1983 đến nay, xã hòn này có tên Lại Sơn, thuộc huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, cách Rạch Giá hơn 50 km đường biển.

< Hòn Sơn Rái nhìn trên tàu.

Nằm trong khu vực tam giác biển Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc, trước đây nơi này được thuyền buôn các nơi lui tới tấp nập. Các mặt hàng được ưa chuộng nhất là cá khô, mắm ruốc, hải sâm, bóng cá, đồi mồi, đặc biệt là nước mắm…

< Tàu vào Bãi Nhà, thuyền nhỏ túa ra đón.

Từ bến cảng Rạch Giá, vượt biển thẳng hướng Tây 28 km là đến Hòn Tre, từ đó đi chếch về hướng Nam thêm 25 km nữa là đến Bãi Nam của hòn Sơn Rái.

Sơn Rái hôm nay có hơn 800 hộ với trên 9.000 nhân khẩu. Ngoài những di tích văn hóa lịch sử có giá trị như miếu bà Chúa Hòn, đền thờ Nam Hải Đại tướng quân và đình Nguyễn Trung Trực có kiến trúc mang đậm dấu ấn Đông phương, nơi đây còn nhiều bãi tắm đẹp, thu hút du khách đến mở rộng tầm nhìn nước biển xanh trong màu ngọc bích, thưởng thức gió biển mát rượi, nghe tiếng chuông chùa Hải Sơn Tự ngân nga để lòng được thanh thản, quên đi những ngày lao động vất vả đã qua.

Cát ở bãi Thiên Tuế trắng mịn như pha lê. Bên bãi Nhà, trên đỉnh cao là lăng Ông Nam Hải nằm uy nghi trước biển như tấm lá chắn vô hình chở che cho những ngư phủ gặp khó khăn trên biển cả. Phía trái Sơn Rái còn có bãi Giếng nhìn ra biển và ở đó có một khối đá to như đón chào du khách phương xa. Tắm biển xong, khách có thể thưởng thức nước dừa xứ biển trồng trên đồi cao có vị ngọt không thua nước dừa xiêm Bến Tre.

Từ lâu, dân trên đảo thường tập hợp lại thành những làng nghề trên biển. Thuở xưa, tôm cá bắt được chỉ đủ tiêu dùng. Dần dà, họ đã biết tích trữ thực phẩm phòng khi có mưa bão, dông tố kéo dài bằng cách chế biến cá bạc má, cá mòi, cá ba thú… theo dạng khô hoặc xếp vào thùng hoặc vỉ tre, sau đó đem hấp chín như các loại cá.

Tại vùng biển đảo, cư dân địa phương thường hát:
Để cho đôi trẻ nên duyên,
Lão ông thách cưới một thiên cá mòi.

< Đỉnh Ma Thiên Lãnh trên hòn Sơn Rái.

Một số bô lão địa phương kể rằng thiên nhiên đã ban tặng cho hòn Sơn Rái nguồn cá nhỏ nổi theo đàn, nhưng thịt bở, ít xương nên bà con đã sáng tạo ra cách làm nước mắm.

Các gia đình cứ cho cá ướp vào lu, hũ, khạp đem phơi nắng rồi khuấy đều, đậy nắp lại. Vài tháng sau họ đem ra nấu, lọc lấy nước mắm, còn xác cá thì bỏ đi.

Đối với sản vật nổi tiếng của địa phương, không biết từ bao giờ trong dân gian đã truyền tụng câu ca dao:

Nước mắm hòn dầm con cá bẹ,
Bởi mê nước mắm hòn, em trốn mẹ theo anh.

Câu ca dao trên nêu lên tính chất độc đáo của loại nước mắm hòn có nguồn gốc chính hiệu ở hòn Sơn Rái. Vào đầu thế kỷ XX, hòn Sơn Rái là nơi sản xuất nhiều loại nước mắm có tiếng thơm ngon và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, hoàn toàn không thua kém nước mắm Phú Quốc. Đã có nhiều thương nhân vận chuyển nước mắm đi bán ở Cần Vọt (Kampot, Campuchia) và các nơi trong nước.

< Du khách tham quan quy trình ủ nước mắm hòn.

Cơ sở sản xuất nước mắm hòn Sơn Rái có tiếng lâu đời nhất là Đức Ngươn, trước đây do ông Phan Văn Khôn (Mười Khôn) làm chủ. Hiện nay ông đã già yếu nên giao lại cho con là Phạm Văn Ngoan nối nghiệp. Anh Triệu Hoàng Phương, chủ doanh nghiệp Phương Khanh, hoạt động đã hơn 15 năm, cho hay rằng để chủ động về nguồn nguyên liệu, hầu hết các chủ cơ sở sản xuất nước mắm đều có tàu đánh bắt cá cơm, mỗi chiếc trị giá hàng trăm triệu đồng.

< Nước mắm cá cơm hòn Sơn Rái với hương vị đậm đà, khó quên.

Đánh bắt cá cơm phải theo mùa, từ tháng 7 đến tháng 10 Âm lịch là mùa chính, ở gần hòn Củ Tron, quần đảo Nam Du hoặc hòn Thơm (Phú Quốc). Nước mắm hòn loại cốt nhĩ 40-41 độ đạm giá chỉ 40.000 đồng một lít, thấp hơn nước mắm Phú Quốc chừng 15.000 đồng.

Khách du lịch, đặc biệt là Tây ba lô, mỗi lần đến thăm hòn Sơn Rái đều yêu cầu được tham quan các cơ sở làm nước mắm. Tại đó, có người dùng ngay nước mắm chấm với các món ăn như tôm, ghẹ luộc, mực hấp gừng một cách ngon lành.

Korean Air! - Theo Nguyễn Hà Phương (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần), ảnh internet