Hiển thị các bài đăng có nhãn Phong tục - Văn hóa VN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phong tục - Văn hóa VN. Hiển thị tất cả bài đăng
Bắt đầu từ sáng sớm hôm nay, ngày 3-2-2013 (tức ngày 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn), đoàn nghệ nhân và người dân Bát Tràng tập hợp đông đủ tại đình làng Bát Tràng để chuẩn bị cho lễ rước ông Công - ông Táo về trung tâm thành phố Hà Nội.

Đây là lần đầu tiên Hà Nội có một lễ rước ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa được tổ chức.

Theo văn hóa dân gian, ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia đình Việt Nam sẽ làm lễ tiễn ông Công - ông Táo về chầu trời, gửi gắm niềm tin về một năm mới tốt lành sắp tới. Năm nay, trong khuôn khổ Hội hoa chợ Tết tôn vinh làng nghề và hàng nông sản chất lượng cao do Bộ VH-TT và DL phối hợp với UBND TP Hà Nội, Hội Nông dân TP Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức.

Người dân Hà Nội sẽ được chứng kiến một Lễ hội ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa. Đây cũng là dịp để người dân Hà Nội thêm hiểu hơn về  những nghi lễ truyền thống - những di sản phi vật thể có giá trị đang dần bị mai một.

Lễ hội dân gian ông Công - ông Táo do làng gốm cổ Bát Tràng thực hiện với các nghi thức dân gian, truyền thống, bao gồm nghi lễ rước ba “ông đầu rau” khổng lồ được làm bằng vàng mã, rước cá chép dài tới 3,5m làm từ giấy và đặc biệt là chiếc bếp cổ được làm từ trấu và đất sét với chiều dài 1m, chiều rộng 65cm và chiều cao 45cm. Cùng với đó là 12 mâm sản vật, lễ vật của địa phương gồm bánh chưng, bánh dày, bánh đậu xanh, kẹo sìu châu, bánh cu đơ, bánh cáy, bánh phu thê, bưởi ngọt, nhãn muộn, mâm ngũ quả…

Chuẩn bị lễ hội ông Công, ông Táo lần đầu tiên

Để có được lễ rước hoành tráng này, từ hàng tháng nay, khoảng 20 nghệ nhân và hàng trăm thợ giỏi cùng người dân làng nghề Bát Tràng đã phấn khởi bắt tay vào công tác chuẩn bị, mọi công việc được tiến hành tại đình làng Bát Tràng. Ai cũng háo hức, tự hào khi được đại diện cho nghệ nhân, thợ giỏi của các làng nghề trong cả nước tham gia vào việc chuẩn bị cho Lễ hội. Kỳ công nhất là công đoạn làm chiếc bếp bằng trấu và đất sét.

Từ trước đó cả tháng, đại diện Hiệp hội làng nghề Việt Nam và nghệ nhân làng nghề Bát Tràng đã khởi hành lên tận Đền Hùng (Phú Thọ) để làm lễ xin đất Đền Hùng và nước Giếng Ngọc đưa về đình làng Bát Tràng để làm lễ. Sau đó đất và nước này đượcc giao cho anh em thợ giỏi bắt tay vào làm chiếc bếp cổ. Khó nữa là nhiều năm trở lại đây, bà con đã chuyển hết việc nấu nướng sang bếp than tổ ong, bếp ga nên hầu như chẳng ai còn giữ chiếc bếp cổ, vì vậy các nghệ nhân phải lục lại khắp nơi để tìm một mô hình chiếc bếp cổ và chế tác một chiếc bếp khổng lồ giống y như thế từ trấu và đất sét.

Lễ rước sẽ bắt đầu từ làng gốm Bát Tràng với 9 xe kiệu dẫn đầu là cụ trưởng làng Bát Tràng, đội tế nam - tế nữ - sênh tiền và bà con, nghệ nhân làng Bát Tràng, dọc theo đê sông Hồng, qua cầu Chương Dương và các mâm lễ vật sẽ được dâng cúng tại các điểm: tượng đài Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, tượng đài vua Lê Thái Tổ… và dừng tại Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam nơi diễn ra hội hoa, chợ Tết.

May thay, Tết ông Táo vẫn còn!

Đưa ông Táo về trời, nhà nhà đang bận rộn từ sáng lo cúng lễ; nhưng có lẽ không nhiều người hiểu kỹ nguồn gốc, ý nghĩa của mỹ tục này, một tập quán ngày càng có giá trị sâu sắc trong đời sống hiện đại.

Vẫn bảo, đời sống khấm khá hơn, chẳng phải dành dụm chuẩn bị Tết từ… Hè, Thu như thời bao cấp, nhưng các bà các mẹ vẫn giữ nếp lo xa. Cứ ỉ bây giờ cái gì cũng sẵn, sát Tết mới sắm sanh thì lại cập rập hoặc đắt đỏ.

Xu hướng phát triển toàn cầu dẫn con người mật thiết thế giới tâm linh ngày càng rõ. Tôn giáo, tín ngưỡng trong nguyên bản ý nghĩa (không tính những phái sinh lệch lạc, biến tướng) cho chúng ta được nương tựa, chở che, hướng thiện.

Tết Nguyên đán có ý nghĩa với hơn 1,5 tỷ dân thế giới, người gốc Hoa, người Việt Nam thực sự sôi động từ ngày tiễn thần Bếp lên trời.
Từ đầu Chạp, qua Hàng Mã - một phố trong khu phố cổ (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) còn giữ nghề theo tên gọi, đã bày bán mũ, áo, hia, vàng thoi - đồ mã cúng Táo Công.

Tại Thủ đô, chợ lâu năm dần được thay thế bằng các siêu thị, trung tâm thương mại, không khí mua sắm ở chợ vẫn gần gũi đời sống nhân quần. Tại các chợ, hàng  mã cuối năm tấp  nập. Chợ Tết xưa có quầy tranh tết, trong đó có tranh Táo Quân. Quầy tranh Tết lâu không còn, chỉ có hàng trăm cửa hàng tranh chép. Tết đến gần, qua những hàng rong bán đào, gánh hàng mã ruổi khắp phố.
Cùng Tết Nguyên đán, Tết ông Công ông Táo là tập tục qua truyền khẩu ghi chép, có biến thể khác nhau. Theo nguồn tài liệu đáng tin cậy, thì tích này vắn tắt như sau:

Đôi vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau nhiều năm mà không thể có con, sinh ra cáu gắt, hay cãi cọ. Một hôm, người chồng nổi nóng đánh vợ, Thị Nhi bỏ nhà đi. Nàng nằm nghỉ gần một ngã tư đường, gặp người nông dân cày về, nàng đi theo và chàng chú ý. Đó là Phạm Lang, và họ thành vợ chồng. Trọng Cao bị bất hạnh, nếm trải nỗi cơ hàn (có tài liệu ghi Trọng Cao ân hận đi tìm vợ) phải đi ăn xin. Lang thang mãi, hết tiền, mệt và đói lả, Cao ngã xuống trước cửa, ngờ đâu là nhà Thị Nhi. Thị Nhi cho Trọng Cao ăn uống.

Người đàn ông khốn khổ ăn nhiều, say rượu, ngã lăn ra. Vì không muốn để chồng cũ chồng mới giáp mặt, Thị Nhi sai người khênh Trọng Cao giấu vào đống rơm (có phiên bản ghi Trọng Cao xin lỗi vợ và Thị Nhi ân hận đã lấy Phạm Lang, bảo Cao trốn vào đống rơm). Phạm Lang về, trước lúc đi ngủ, nhớ ra mai phải bón ruộng, nên ra đốt rơm lấy tro. Trọng Cao bị chết trong đó. Thị Nhi tự trừng phạt mình, nhảy vào lửa. Phạm Lang yêu vợ, thấy quá bất ngờ, nhảy tiếp vào đống rơm cháy, chết theo.

Linh hồn ba người lên Thượng đế - thấy ba người có nghĩa, Thượng đế sắc phong làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, mỗi người giữ một việc. Phạm Long làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi nhà cửa. Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi chợ búa.

Kết thúc của các tích, dù biến thể nào, nhân vật đều chết thảm. Truyện kể theo sách GS Nguyễn Văn Huyên còn có phần kết: “Anh đầy tớ thấy ông bà chủ chết bèn lao đầu vào lửa tỏ lòng trung thành. Thượng đế xúc động về tinh thần hỉ xả ấy, giao cho họ trông nom bếp núc của tất cả các gia đình trên thế gian và đánh giá mọi hành vi của con người. Tập tục cúng ông Táo cũng là tưởng nhớ tấn bi kịch gia đình. Hai hòn đá hai bên là ông (hai ông chồng), hòn phía trước là bà (người vợ). Viên cuội đặt trên than để nó không cháy quá nhanh, là hòn lộc (người đầy tớ trung thành).

Táo, nghĩa là bếp. Táo Quân Trung Hoa có truyền thuyết khác  nhau. Nền văn minh phong kiến Trung Hoa 5.000 năm đề cao gia trưởng, thứ bậc, trọng nam, nhưng sách Ngũ kinh di nghĩa cho Táo Thần là “lão phụ” (người đàn bà). Dù truyền thuyết, sự tích nào, ở quốc gia nào, thì lửa là may mắn và không sai khác là phần báo cáo hàng năm của những vị thần trong bếp mỗi nhà. Người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, có bài vị chữ Hán, cúng thịt, cá, rượu, bánh kẹo. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam Việt hoá huyền tích “Hai ông một bà” thành Thần Đất, thần Nhà, thần Bếp núc, gọi chung là Táo Quân, ông Táo do kết quả thuyết Tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi).

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, cách gọi “ông hóa” về ba vị, dù trong đó có 1 bà, cũng như cách gọi chung “ông đồ” (mà thực tế có cả các bà đồ) là ảnh hưởng của tinh thần nam quyền.

Ở nông thôn từ xa xưa, bếp được bắc bằng ba hòn đất (gạch), gọi là ba ông đầu rau. Ngày 23 tháng Chạp, đem 3 ông đầu rau cũ ra gốc cây đa, cây gạo, thay 3 ông mới, chỉ nổi lửa vào ngày 28 tại chỗ đầu rau mới, để cầu may. Thế “kiềng ba chân” từ ba ông đầu rau mà nên.

Chẳng phải phú quý sinh lễ nghĩa, mà quan niệm, “luật cúng” đã đúc kết nhiều đời thành tục cổ truyền. Ai chẳng muốn được báo cáo tốt, nên phải sửa soạn trang phục, phương tiện, lệ phí, cơm rượu mời các Táo, cúng bái nghiêm cẩn để Táo báo cáo Trời (Ngọc Hoàng) chuyện cả năm của nhà mình và phù trợ cho gia đình một năm may mắn. Mũ cho ông Táo có hai cánh chuồn, Táo bà không có. Tất cả đều có gương tròn nhỏ lóng lánh, dây kim tuyến sặc sỡ. Tùy năm, màu sắc, mũ, áo, hia của ông Táo ông Công thay đổi theo ngũ hành: Hành Kim - màu vàng; Hành Mộc: trắng; Hành Thủy: xanh; Hành Hoả: đỏ; Hành Thổ: đen. Năm Quý Tỵ này là Hành Thủy.

Cá chép để các thần cưỡi về trời, có nơi lại thay bằng cá chép hàng mã, cũng như lệ cúng giản lược chỉ còn mũ cánh chuồn cho Táo ông; trước Tết giờ còn mấy ai dựng cây nêu nữa?
Phú quý sinh lễ nghĩa. Nhiều người vì lệ cúng này, làm ảnh hưởng môi trường, vàng mã đốt quá nhiều, thả cá ra ao hồ thì quăng cả túi nilon gây tắc, ô nhiễm.

Táo miền Bắc cúng cá chép, ngụ ý cá hóa rồng đưa ông Táo về trời khi “phóng sinh” thả ra ao, hồ. Miền Trung, bà con cúng ngựa giấy có yên, cương đầy đủ. Miền Nam nhiều sông nước, mà có nơi cũng chẳng cúng cá. Lễ vật cúng có thể là lễ mặn (xôi, gà, chân giò luộc, canh măng, nấm), lễ chay (trầu cau, hoa quả) kèm theo vàng bạc mã để tiễn Táo công.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc: “Tết ông Công ông Táo thể hiện mối quan hệ của con người với dương trần và thiên đàng, với đất Mẹ và Thượng đế. Qua đây, ta thấy vai trò gia đình của xã hội truyền thống rất lớn. Thần Bếp - 3 ông đầu rau, biết hết mọi việc trong nhà, kể cả các bí mật, chuyện riêng tư. Mọi việc ta làm, sống thế nào ở trần gian này, Thượng đế sẽ biết hết, bởi ông Công ông Táo trong nhà ta nắm bắt và báo cáo. Điều này nhắc nhở người ta phải nhớ thuyết/luật Nhân - Quả, các giá trị đạo lý, ở hiền gặp lành.

Xã hội ngày càng phát triển, những lễ tục truyền thống ngày một giản lược, mai một. May thay Tết ông Công ông Táo vẫn còn. Đấy là cách để giữ được mối gắn bó giữa con người với con người, cuộc sống quanh mình, tính chịu trách nhiệm về cử chỉ, hành động, công việc của mình. Tôi lo lắng, liệu tập quán tốt đẹp này sẽ bị mất đi không?”. Những ai làm điều xấu khi nắm rõ vai trò các ông Táo, hẳn lòng không thanh thản. Đúng như J. Simon cho rằng: “Chỉ khi nào con người có tinh thần bổn phận, thì mới làm chủ định mệnh của mình”.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên và lâu năm nhất của nước Việt Nam từ ngày thành lập 2-9-1945 cho đến nay là GS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975). Ông chính là nhà dân tộc học hàng đầu của nước ta. Tên ông được đặt cho con đường thuộc quận Cầu Giấy, nơi toạ lạc Bảo tàng Dân tộc học mà con trai ông - PGS.TS Nguyễn Văn Huy (SN 1945) đã có nhiều đóng góp lớn từ ngày đầu thành lập đến khi về hưu (2008).

Bảo tàng này đã làm nên “cuộc cách mạng” khi không chỉ đóng khép với mô hình tư liệu, hiện vật, mà mở cửa sống động gần gũi. Người xem tham gia các trò chơi dân gian hay cách phong tục thể hiện theo nguyên bản cho mọi người chiêm ngưỡng, bảo tồn. Tết Nguyên đán là dịp các tập quán đẹp được thực hiện và phục dựng tại đây.

Gần 80 năm trước, năm 1934, tại Paris, chàng trai 29 tuổi Nguyễn Văn Huyên nhận bằng Tiến sĩ Dân tộc học tại Đại học Sorbonre. Trong cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” (một tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1”), dù tiêu đề là “góp phần”, nhưng GS Huyên đã viết rất kỹ, hay bằng kiến thức lịch sử và văn hóa đồ sộ.

Ông viết: “Về thực tế, việc chuẩn bị cho Tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng Thần Bếp, 23 tháng Chạp. Hôm đó, Táo Quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà ngài che chở và giám sát, lên Trời để tấu trình tỉ mỉ với Thượng đế về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua. Thần Bếp, Táo Quân thường hay bị lẫn với Thổ Công hay Thổ Địa, là thần đất trong nhà, bản thân thần này lệ thuộc vào thần Thành hoàng, tức thần đất của làng và thần Xã tắc là vị thần vua, hiện thân của đất nước.

Đôi khi, ý thức dân gian tìm cách phân biệt những thần này, nhưng sự phân biệt luôn luôn rất mơ hồ. Dù sao, khi người ta phân biệt được các thần đó, thì Thổ Công được trình bày trên bàn thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo Quân là bộ ba gồm một thần nữ có hai thần nam kèm bên. Tuy nhiên, người ta thường công nhận rằng Thổ Công được gộp trong bộ ba đó, gồm Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, theo lời dạy của các nhà nho. Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành kiềng đun bếp: hòn thứ nhất là đất nói chung, hòn thứ hai là đất trong nhà và hòn thứ ba là thần Bếp”.

Tết ông Công ông Táo như “lá cờ lệnh” phất lên khí Xuân ở tuần chót năm. Năm Nhâm Thìn lưu luyến, năm Quý Tỵ sát gần. Đúng 1 tuần nữa, là lễ trọng nhất: Lễ cúng Giao thừa, mâm cơm cúng tất niên quá đỗi thiêng liêng.

Tối 30 Tết, chương trình “Gặp nhau cuối năm” do Hãng phim Truyền hình Việt Nam thực hiện luôn được chú ý đón xem. Các nghệ sĩ đóng vai Táo các lĩnh vực báo cáo Ngọc Hoàng về hiện trạng năm qua. Được ghi hình hôm 25, 26, 27-1-2013 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, đặc thù của chương trình Táo Quân năm nay vẫn tiếp tục chất hài hước sâu cay, dám phê phán những bất ổn trong luật pháp và đời sống.

Dù ăn Tết to hay nhỏ, giản đơn hay linh đình, Tết nhà nào cũng nổi lửa. Đun điện, gạch, than, củi, bếp nào cũng có năng lượng, lửa ấm. Có lửa, là ông Công ông Táo lại thấy chúng ta. Hãy sống tốt, sống thiện, chăm chỉ mỗi ngày, để cuối năm thanh thản, ăn Tết an vui và đón năm mới nhiều hy vọng.

Tổng hợp từ ANTĐ, internet

Bắt đầu từ sáng sớm hôm nay, ngày 3-2-2013 (tức ngày 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn), đoàn nghệ nhân và người dân Bát Tràng tập hợp đông đủ tại đình làng Bát Tràng để chuẩn bị cho lễ rước ông Công - ông Táo về trung tâm thành phố Hà Nội.

Đây là lần đầu tiên Hà Nội có một lễ rước ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa được tổ chức.

Theo văn hóa dân gian, ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia đình Việt Nam sẽ làm lễ tiễn ông Công - ông Táo về chầu trời, gửi gắm niềm tin về một năm mới tốt lành sắp tới. Năm nay, trong khuôn khổ Hội hoa chợ Tết tôn vinh làng nghề và hàng nông sản chất lượng cao do Bộ VH-TT và DL phối hợp với UBND TP Hà Nội, Hội Nông dân TP Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức.

Người dân Hà Nội sẽ được chứng kiến một Lễ hội ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa. Đây cũng là dịp để người dân Hà Nội thêm hiểu hơn về  những nghi lễ truyền thống - những di sản phi vật thể có giá trị đang dần bị mai một.

Lễ hội dân gian ông Công - ông Táo do làng gốm cổ Bát Tràng thực hiện với các nghi thức dân gian, truyền thống, bao gồm nghi lễ rước ba “ông đầu rau” khổng lồ được làm bằng vàng mã, rước cá chép dài tới 3,5m làm từ giấy và đặc biệt là chiếc bếp cổ được làm từ trấu và đất sét với chiều dài 1m, chiều rộng 65cm và chiều cao 45cm. Cùng với đó là 12 mâm sản vật, lễ vật của địa phương gồm bánh chưng, bánh dày, bánh đậu xanh, kẹo sìu châu, bánh cu đơ, bánh cáy, bánh phu thê, bưởi ngọt, nhãn muộn, mâm ngũ quả…

Chuẩn bị lễ hội ông Công, ông Táo lần đầu tiên

Để có được lễ rước hoành tráng này, từ hàng tháng nay, khoảng 20 nghệ nhân và hàng trăm thợ giỏi cùng người dân làng nghề Bát Tràng đã phấn khởi bắt tay vào công tác chuẩn bị, mọi công việc được tiến hành tại đình làng Bát Tràng. Ai cũng háo hức, tự hào khi được đại diện cho nghệ nhân, thợ giỏi của các làng nghề trong cả nước tham gia vào việc chuẩn bị cho Lễ hội. Kỳ công nhất là công đoạn làm chiếc bếp bằng trấu và đất sét.

Từ trước đó cả tháng, đại diện Hiệp hội làng nghề Việt Nam và nghệ nhân làng nghề Bát Tràng đã khởi hành lên tận Đền Hùng (Phú Thọ) để làm lễ xin đất Đền Hùng và nước Giếng Ngọc đưa về đình làng Bát Tràng để làm lễ. Sau đó đất và nước này đượcc giao cho anh em thợ giỏi bắt tay vào làm chiếc bếp cổ. Khó nữa là nhiều năm trở lại đây, bà con đã chuyển hết việc nấu nướng sang bếp than tổ ong, bếp ga nên hầu như chẳng ai còn giữ chiếc bếp cổ, vì vậy các nghệ nhân phải lục lại khắp nơi để tìm một mô hình chiếc bếp cổ và chế tác một chiếc bếp khổng lồ giống y như thế từ trấu và đất sét.

Lễ rước sẽ bắt đầu từ làng gốm Bát Tràng với 9 xe kiệu dẫn đầu là cụ trưởng làng Bát Tràng, đội tế nam - tế nữ - sênh tiền và bà con, nghệ nhân làng Bát Tràng, dọc theo đê sông Hồng, qua cầu Chương Dương và các mâm lễ vật sẽ được dâng cúng tại các điểm: tượng đài Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, tượng đài vua Lê Thái Tổ… và dừng tại Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam nơi diễn ra hội hoa, chợ Tết.

May thay, Tết ông Táo vẫn còn!

Đưa ông Táo về trời, nhà nhà đang bận rộn từ sáng lo cúng lễ; nhưng có lẽ không nhiều người hiểu kỹ nguồn gốc, ý nghĩa của mỹ tục này, một tập quán ngày càng có giá trị sâu sắc trong đời sống hiện đại.

Vẫn bảo, đời sống khấm khá hơn, chẳng phải dành dụm chuẩn bị Tết từ… Hè, Thu như thời bao cấp, nhưng các bà các mẹ vẫn giữ nếp lo xa. Cứ ỉ bây giờ cái gì cũng sẵn, sát Tết mới sắm sanh thì lại cập rập hoặc đắt đỏ.

Xu hướng phát triển toàn cầu dẫn con người mật thiết thế giới tâm linh ngày càng rõ. Tôn giáo, tín ngưỡng trong nguyên bản ý nghĩa (không tính những phái sinh lệch lạc, biến tướng) cho chúng ta được nương tựa, chở che, hướng thiện.

Tết Nguyên đán có ý nghĩa với hơn 1,5 tỷ dân thế giới, người gốc Hoa, người Việt Nam thực sự sôi động từ ngày tiễn thần Bếp lên trời.
Từ đầu Chạp, qua Hàng Mã - một phố trong khu phố cổ (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) còn giữ nghề theo tên gọi, đã bày bán mũ, áo, hia, vàng thoi - đồ mã cúng Táo Công.

Tại Thủ đô, chợ lâu năm dần được thay thế bằng các siêu thị, trung tâm thương mại, không khí mua sắm ở chợ vẫn gần gũi đời sống nhân quần. Tại các chợ, hàng  mã cuối năm tấp  nập. Chợ Tết xưa có quầy tranh tết, trong đó có tranh Táo Quân. Quầy tranh Tết lâu không còn, chỉ có hàng trăm cửa hàng tranh chép. Tết đến gần, qua những hàng rong bán đào, gánh hàng mã ruổi khắp phố.
Cùng Tết Nguyên đán, Tết ông Công ông Táo là tập tục qua truyền khẩu ghi chép, có biến thể khác nhau. Theo nguồn tài liệu đáng tin cậy, thì tích này vắn tắt như sau:

Đôi vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau nhiều năm mà không thể có con, sinh ra cáu gắt, hay cãi cọ. Một hôm, người chồng nổi nóng đánh vợ, Thị Nhi bỏ nhà đi. Nàng nằm nghỉ gần một ngã tư đường, gặp người nông dân cày về, nàng đi theo và chàng chú ý. Đó là Phạm Lang, và họ thành vợ chồng. Trọng Cao bị bất hạnh, nếm trải nỗi cơ hàn (có tài liệu ghi Trọng Cao ân hận đi tìm vợ) phải đi ăn xin. Lang thang mãi, hết tiền, mệt và đói lả, Cao ngã xuống trước cửa, ngờ đâu là nhà Thị Nhi. Thị Nhi cho Trọng Cao ăn uống.

Người đàn ông khốn khổ ăn nhiều, say rượu, ngã lăn ra. Vì không muốn để chồng cũ chồng mới giáp mặt, Thị Nhi sai người khênh Trọng Cao giấu vào đống rơm (có phiên bản ghi Trọng Cao xin lỗi vợ và Thị Nhi ân hận đã lấy Phạm Lang, bảo Cao trốn vào đống rơm). Phạm Lang về, trước lúc đi ngủ, nhớ ra mai phải bón ruộng, nên ra đốt rơm lấy tro. Trọng Cao bị chết trong đó. Thị Nhi tự trừng phạt mình, nhảy vào lửa. Phạm Lang yêu vợ, thấy quá bất ngờ, nhảy tiếp vào đống rơm cháy, chết theo.

Linh hồn ba người lên Thượng đế - thấy ba người có nghĩa, Thượng đế sắc phong làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, mỗi người giữ một việc. Phạm Long làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi nhà cửa. Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi chợ búa.

Kết thúc của các tích, dù biến thể nào, nhân vật đều chết thảm. Truyện kể theo sách GS Nguyễn Văn Huyên còn có phần kết: “Anh đầy tớ thấy ông bà chủ chết bèn lao đầu vào lửa tỏ lòng trung thành. Thượng đế xúc động về tinh thần hỉ xả ấy, giao cho họ trông nom bếp núc của tất cả các gia đình trên thế gian và đánh giá mọi hành vi của con người. Tập tục cúng ông Táo cũng là tưởng nhớ tấn bi kịch gia đình. Hai hòn đá hai bên là ông (hai ông chồng), hòn phía trước là bà (người vợ). Viên cuội đặt trên than để nó không cháy quá nhanh, là hòn lộc (người đầy tớ trung thành).

Táo, nghĩa là bếp. Táo Quân Trung Hoa có truyền thuyết khác  nhau. Nền văn minh phong kiến Trung Hoa 5.000 năm đề cao gia trưởng, thứ bậc, trọng nam, nhưng sách Ngũ kinh di nghĩa cho Táo Thần là “lão phụ” (người đàn bà). Dù truyền thuyết, sự tích nào, ở quốc gia nào, thì lửa là may mắn và không sai khác là phần báo cáo hàng năm của những vị thần trong bếp mỗi nhà. Người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, có bài vị chữ Hán, cúng thịt, cá, rượu, bánh kẹo. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam Việt hoá huyền tích “Hai ông một bà” thành Thần Đất, thần Nhà, thần Bếp núc, gọi chung là Táo Quân, ông Táo do kết quả thuyết Tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi).

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, cách gọi “ông hóa” về ba vị, dù trong đó có 1 bà, cũng như cách gọi chung “ông đồ” (mà thực tế có cả các bà đồ) là ảnh hưởng của tinh thần nam quyền.

Ở nông thôn từ xa xưa, bếp được bắc bằng ba hòn đất (gạch), gọi là ba ông đầu rau. Ngày 23 tháng Chạp, đem 3 ông đầu rau cũ ra gốc cây đa, cây gạo, thay 3 ông mới, chỉ nổi lửa vào ngày 28 tại chỗ đầu rau mới, để cầu may. Thế “kiềng ba chân” từ ba ông đầu rau mà nên.

Chẳng phải phú quý sinh lễ nghĩa, mà quan niệm, “luật cúng” đã đúc kết nhiều đời thành tục cổ truyền. Ai chẳng muốn được báo cáo tốt, nên phải sửa soạn trang phục, phương tiện, lệ phí, cơm rượu mời các Táo, cúng bái nghiêm cẩn để Táo báo cáo Trời (Ngọc Hoàng) chuyện cả năm của nhà mình và phù trợ cho gia đình một năm may mắn. Mũ cho ông Táo có hai cánh chuồn, Táo bà không có. Tất cả đều có gương tròn nhỏ lóng lánh, dây kim tuyến sặc sỡ. Tùy năm, màu sắc, mũ, áo, hia của ông Táo ông Công thay đổi theo ngũ hành: Hành Kim - màu vàng; Hành Mộc: trắng; Hành Thủy: xanh; Hành Hoả: đỏ; Hành Thổ: đen. Năm Quý Tỵ này là Hành Thủy.

Cá chép để các thần cưỡi về trời, có nơi lại thay bằng cá chép hàng mã, cũng như lệ cúng giản lược chỉ còn mũ cánh chuồn cho Táo ông; trước Tết giờ còn mấy ai dựng cây nêu nữa?
Phú quý sinh lễ nghĩa. Nhiều người vì lệ cúng này, làm ảnh hưởng môi trường, vàng mã đốt quá nhiều, thả cá ra ao hồ thì quăng cả túi nilon gây tắc, ô nhiễm.

Táo miền Bắc cúng cá chép, ngụ ý cá hóa rồng đưa ông Táo về trời khi “phóng sinh” thả ra ao, hồ. Miền Trung, bà con cúng ngựa giấy có yên, cương đầy đủ. Miền Nam nhiều sông nước, mà có nơi cũng chẳng cúng cá. Lễ vật cúng có thể là lễ mặn (xôi, gà, chân giò luộc, canh măng, nấm), lễ chay (trầu cau, hoa quả) kèm theo vàng bạc mã để tiễn Táo công.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc: “Tết ông Công ông Táo thể hiện mối quan hệ của con người với dương trần và thiên đàng, với đất Mẹ và Thượng đế. Qua đây, ta thấy vai trò gia đình của xã hội truyền thống rất lớn. Thần Bếp - 3 ông đầu rau, biết hết mọi việc trong nhà, kể cả các bí mật, chuyện riêng tư. Mọi việc ta làm, sống thế nào ở trần gian này, Thượng đế sẽ biết hết, bởi ông Công ông Táo trong nhà ta nắm bắt và báo cáo. Điều này nhắc nhở người ta phải nhớ thuyết/luật Nhân - Quả, các giá trị đạo lý, ở hiền gặp lành.

Xã hội ngày càng phát triển, những lễ tục truyền thống ngày một giản lược, mai một. May thay Tết ông Công ông Táo vẫn còn. Đấy là cách để giữ được mối gắn bó giữa con người với con người, cuộc sống quanh mình, tính chịu trách nhiệm về cử chỉ, hành động, công việc của mình. Tôi lo lắng, liệu tập quán tốt đẹp này sẽ bị mất đi không?”. Những ai làm điều xấu khi nắm rõ vai trò các ông Táo, hẳn lòng không thanh thản. Đúng như J. Simon cho rằng: “Chỉ khi nào con người có tinh thần bổn phận, thì mới làm chủ định mệnh của mình”.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên và lâu năm nhất của nước Việt Nam từ ngày thành lập 2-9-1945 cho đến nay là GS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975). Ông chính là nhà dân tộc học hàng đầu của nước ta. Tên ông được đặt cho con đường thuộc quận Cầu Giấy, nơi toạ lạc Bảo tàng Dân tộc học mà con trai ông - PGS.TS Nguyễn Văn Huy (SN 1945) đã có nhiều đóng góp lớn từ ngày đầu thành lập đến khi về hưu (2008).

Bảo tàng này đã làm nên “cuộc cách mạng” khi không chỉ đóng khép với mô hình tư liệu, hiện vật, mà mở cửa sống động gần gũi. Người xem tham gia các trò chơi dân gian hay cách phong tục thể hiện theo nguyên bản cho mọi người chiêm ngưỡng, bảo tồn. Tết Nguyên đán là dịp các tập quán đẹp được thực hiện và phục dựng tại đây.

Gần 80 năm trước, năm 1934, tại Paris, chàng trai 29 tuổi Nguyễn Văn Huyên nhận bằng Tiến sĩ Dân tộc học tại Đại học Sorbonre. Trong cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” (một tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1”), dù tiêu đề là “góp phần”, nhưng GS Huyên đã viết rất kỹ, hay bằng kiến thức lịch sử và văn hóa đồ sộ.

Ông viết: “Về thực tế, việc chuẩn bị cho Tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng Thần Bếp, 23 tháng Chạp. Hôm đó, Táo Quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà ngài che chở và giám sát, lên Trời để tấu trình tỉ mỉ với Thượng đế về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua. Thần Bếp, Táo Quân thường hay bị lẫn với Thổ Công hay Thổ Địa, là thần đất trong nhà, bản thân thần này lệ thuộc vào thần Thành hoàng, tức thần đất của làng và thần Xã tắc là vị thần vua, hiện thân của đất nước.

Đôi khi, ý thức dân gian tìm cách phân biệt những thần này, nhưng sự phân biệt luôn luôn rất mơ hồ. Dù sao, khi người ta phân biệt được các thần đó, thì Thổ Công được trình bày trên bàn thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo Quân là bộ ba gồm một thần nữ có hai thần nam kèm bên. Tuy nhiên, người ta thường công nhận rằng Thổ Công được gộp trong bộ ba đó, gồm Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, theo lời dạy của các nhà nho. Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành kiềng đun bếp: hòn thứ nhất là đất nói chung, hòn thứ hai là đất trong nhà và hòn thứ ba là thần Bếp”.

Tết ông Công ông Táo như “lá cờ lệnh” phất lên khí Xuân ở tuần chót năm. Năm Nhâm Thìn lưu luyến, năm Quý Tỵ sát gần. Đúng 1 tuần nữa, là lễ trọng nhất: Lễ cúng Giao thừa, mâm cơm cúng tất niên quá đỗi thiêng liêng.

Tối 30 Tết, chương trình “Gặp nhau cuối năm” do Hãng phim Truyền hình Việt Nam thực hiện luôn được chú ý đón xem. Các nghệ sĩ đóng vai Táo các lĩnh vực báo cáo Ngọc Hoàng về hiện trạng năm qua. Được ghi hình hôm 25, 26, 27-1-2013 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, đặc thù của chương trình Táo Quân năm nay vẫn tiếp tục chất hài hước sâu cay, dám phê phán những bất ổn trong luật pháp và đời sống.

Dù ăn Tết to hay nhỏ, giản đơn hay linh đình, Tết nhà nào cũng nổi lửa. Đun điện, gạch, than, củi, bếp nào cũng có năng lượng, lửa ấm. Có lửa, là ông Công ông Táo lại thấy chúng ta. Hãy sống tốt, sống thiện, chăm chỉ mỗi ngày, để cuối năm thanh thản, ăn Tết an vui và đón năm mới nhiều hy vọng.

Tổng hợp từ ANTĐ, internet

Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.

Đạo “Ông Trần”

Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.

Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.


< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.

Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.

Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.

Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.

Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.

Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.

< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.

Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.

Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.

< Người dân làng biển Long Sơn.

Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.

Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:

“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.

Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.

Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.

Tục “chết chung hòm”

Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.

< Nhà Lớn Long Sơn.

Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.

Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.

Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.

Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.

Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.

Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.

Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.

Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.

Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.

Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.

Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.

Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet

Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.

Đạo “Ông Trần”

Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.

Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.


< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.

Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.

Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.

Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.

Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.

Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.

< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.

Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.

Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.

< Người dân làng biển Long Sơn.

Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.

Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:

“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.

Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.

Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.

Tục “chết chung hòm”

Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.

< Nhà Lớn Long Sơn.

Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.

Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.

Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.

Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.

Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.

Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.

Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.

Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.

Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.

Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.

Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.

Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet

Tết cổ truyền của người Hà Nhì -Tết Có Nhẹ Chà, xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên diễn ra vào tháng 11 Âm lịch, ngay sau vụ mùa và kéo dài trong ba ngày.

Khắp bản ngày Tết, rượu tràn như dòng Mo Phí mùa nước. Bà con tưng bừng đi chúc Tết, nhà nào cũng sẵn một bàn cỗ ăm ắp thức ăn, các món làm từ thịt lợn và các loại rau cải luộc. Đến mỗi nhà một vài chén cũng đủ để tới khuya, chân lần đất bước về nhà. Tết bắt đầu vào ngày Rồng, không kể đầu tháng hay cuối tháng nhưng nhất định đó phải là ngày Rồng, tùy từng bản có thể tổ chức Tết sớm hay muộn.

Âm thanh Tết ở bản

Sáng sớm, sương mù chưa kịp tan khỏi những tán cây bà con đã lục đục dậy chuẩn bị cho ngày Tết đầu tiên. Ở sân nhà ông Pờ Dần Sinh (Bí thư xã Sín Thầu), một toán thanh niên đang hò dô quây chặt, rọ mõm chú lợn gần hai tạ nuôi đã hai năm nay. Phải sáu bảy người hợp sức mới gô cổ được nó, đưa lên phản gỗ lớn “làm lý” trước khi… hành quyết.

Những bước chân rậm rịch quanh sân chừng như háo hức trong niềm vui Tết với chú lợn núc ních. Trẻ con cũng náo nức lắm, hò nhau dậy sớm chạy ra sân, banh mắt xem người lớn chuẩn bị thịt con vật to béo, đen sì sì nằm phơi bụng thở phì phò trên phản kia. Tiếng lợn eng éc cùng rộ lên ở nhiều nhà khác trong bản… Đó là công việc quan trọng nhất trong ngày Tết đầu tiên của người Hà Nhì.

Tiếng dao thớt băm chặt không ngớt vang từ những chái bếp đã đỏ lửa hồi lâu. Lũ chim chí chách không ngớt trong những lùm cây. Dòng Mo Phí uốn lượn bao quanh bản Tả Kố Khừ mùa này nước trong vắt, róc rách luồn qua những tảng đá to như con trâu rừng.

Ngày thứ hai, khi sương sớm còn đu mình trên những sợi tơ giăng giăng bên bờ suối, trông xa như những con cá vảy bạc mắc lưới trên dòng Pang Pơi mà chúng tôi được thấy vào hôm trước khi theo bà con đi đánh cá thì tiếng giã bánh dày đã thậm thịch đánh thức bình minh cả bản. Tết cổ truyền của người Hà Nhì chẳng thể thiếu bánh dày. Bánh làm từ cơm nếp trộn với vừng rang thơm nức, giã nhuyễn thủ công bằng cối đá chôn ở góc nhà. Hớn hở nhất là tụi trẻ con. Chúng cứ líu tíu quanh mẹt bánh hôi hổi, thơm phức đang mỗi lúc một đầy thêm, thi thoảng nhón tay véo một góc bỏ tọt vào miệng nhai nhóp nhép.

Tiếng canh cách “tố xà” (cạn chén) nhà trên của cánh đàn ông, khách khứa và tiếng xào nấu nhà dưới của cánh phụ nữ cứ đều đặn lặp hết Tết mới thôi. Người dưới xuôi lên Tả Kố Khừ những ngày này có rượu chảy tràn như dòng Mo Phí tiếp đãi nồng hậu. Về nhà bà Sừng Kim Thu, một số người lớn vẫn còn dọn dẹp, có cô cháu gái đang ngồi đun nước trong bếp. Ánh lửa bập bùng lấp loáng gương mặt thiếu nữ miền sơn cước, tôi thoáng liên tưởng đến Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mỵ trong ngày Tết phải ở nhà làm việc, cặm cụi nơi xó bếp, không được xúng xính áo quần đi chơi xuân theo những điệu kèn môi mời gọi.

Và cách "ăn" Tết của người Hà Nhì

Tết cổ truyền, người Hà Nhì thường treo “pín” lợn (nếu là lợn đực) trước nhà, báo hiệu đã mổ lợn ăn Tết. Trước đó, nước pha rượu, gạo trộn với muối sẽ được mang ra rắc vào tai, mõm… nó. Người ta gọi đó là “làm lý”. Ông Pờ Sí Tài - người mà mươi chục năm trước đã có công tìm ra mảnh đất màu mỡ và thuyết phục bà con di cư từ trên Tả Ló San về đây định cư, giải thích: "Làm thế để lứa lợn năm sau sẽ ăn nhiều, ăn tốt hơn năm trước".

Thủ lợn trước khi được cắt lìa khỏi cổ, người mổ dập trở lại. Tương ứng, cứ lợn một tạ thì dập hai lần, lợn hai tạ thì bốn lần để cầu mong lứa lợn năm sau sẽ to gấp hai, ba năm cũ. Gan là bộ phận rất được coi trọng, bởi người đàn ông nhiều kinh nghiệm trong gia đình nhìn vào đó có thể biết được vận hạn của cả nhà trong năm tới.

Ban thờ của người Hà Nhì đặt ở đầu giường nhà trai trưởng. Một dòng họ chỉ có một ban thờ đó, ngoài ra các anh em không đặt ban thờ riêng tại gia. Dịp lễ tết, họ hàng tập trung ở nhà trai trưởng làm lễ cúng bái, nhưng không có hương khói nghi ngút. Ban thờ không thể thiếu thịt lợn, bánh cha lê (bánh trôi), ngoài ra cũng không thể thiếu rượu, gạo và lá chè tươi.

Ăn trọn vẹn cái Tết mới thấy hết tài chế biến của người phụ nữ Hà Nhì. Họ có thể làm thuần thục vài chục món ăn chỉ từ nguyên liệu là thịt lợn, mà mỗi món có hương vị và cách kết hợp chế biến khác nhau.

Thậm chí “A ga xà be” - tên một loại nước chấm, chỉ có vào ngày Tết cũng được làm từ thịt lợn trộn với vài loại thảo quả cay cay, nồng nồng ăn lạ và hấp dẫn. Ba ngày tết, ngày nào gia chủ cũng bày biện cỗ ba bữa với thực đơn giống nhau, quan trọng nhất là phải đủ thịt lợn nghi ngút khói và rượu cả can đặt cạnh bàn ăn…

Người Hà Nhì ăn Tết theo lịch Mặt trăng - Âm lịch, nên những chiếc bánh dày làm ra là tượng trưng cho Mặt trăng. Pờ Hùng Sang, chàng trai bản có thân hình rắn rỏi cho biết: bánh dày làm trong dịp Tết để mong có một năm đủ đầy, tròn vẹn. Tối ngày Tết đầu tiên, nhập mâm là phải uống đủ ba chén rượu, cứ mỗi chén là một cái nắm tay thật chặt, người nào không uống được thì phải chịu hình phạt bằng cách ăn một xâu thịt mỡ. Gian bếp tưng bừng tiếng hò dô “tố xà” cùng lời chúc luôn luôn “chú mừ chú xá, à kha pi pô” – chúc mừng năm mới, chúc mừng sức khỏe.

Ăn trọn vẹn một cái Tết với người Hà Nhì, ấn tượng những món thịt được chế biến vô cùng độc đáo, nhất là cơm Hà Nhì. Gạo tẻ nương chỉ xát một lần nên vẫn giữ được những vệt đỏ. Trần gạo qua nước sôi cho nở ra trước khi đưa vào thố hấp vì thế cơm ăn dẻo, ngọt và thơm. Và phải là người phụ nữ giỏi bếp núc mới nấu được thố cơm ngon thết khách ăn một lần nhớ mãi.

Tết cổ truyền của người Hà Nhì -Tết Có Nhẹ Chà, xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên diễn ra vào tháng 11 Âm lịch, ngay sau vụ mùa và kéo dài trong ba ngày.

Khắp bản ngày Tết, rượu tràn như dòng Mo Phí mùa nước. Bà con tưng bừng đi chúc Tết, nhà nào cũng sẵn một bàn cỗ ăm ắp thức ăn, các món làm từ thịt lợn và các loại rau cải luộc. Đến mỗi nhà một vài chén cũng đủ để tới khuya, chân lần đất bước về nhà. Tết bắt đầu vào ngày Rồng, không kể đầu tháng hay cuối tháng nhưng nhất định đó phải là ngày Rồng, tùy từng bản có thể tổ chức Tết sớm hay muộn.

Âm thanh Tết ở bản

Sáng sớm, sương mù chưa kịp tan khỏi những tán cây bà con đã lục đục dậy chuẩn bị cho ngày Tết đầu tiên. Ở sân nhà ông Pờ Dần Sinh (Bí thư xã Sín Thầu), một toán thanh niên đang hò dô quây chặt, rọ mõm chú lợn gần hai tạ nuôi đã hai năm nay. Phải sáu bảy người hợp sức mới gô cổ được nó, đưa lên phản gỗ lớn “làm lý” trước khi… hành quyết.

Những bước chân rậm rịch quanh sân chừng như háo hức trong niềm vui Tết với chú lợn núc ních. Trẻ con cũng náo nức lắm, hò nhau dậy sớm chạy ra sân, banh mắt xem người lớn chuẩn bị thịt con vật to béo, đen sì sì nằm phơi bụng thở phì phò trên phản kia. Tiếng lợn eng éc cùng rộ lên ở nhiều nhà khác trong bản… Đó là công việc quan trọng nhất trong ngày Tết đầu tiên của người Hà Nhì.

Tiếng dao thớt băm chặt không ngớt vang từ những chái bếp đã đỏ lửa hồi lâu. Lũ chim chí chách không ngớt trong những lùm cây. Dòng Mo Phí uốn lượn bao quanh bản Tả Kố Khừ mùa này nước trong vắt, róc rách luồn qua những tảng đá to như con trâu rừng.

Ngày thứ hai, khi sương sớm còn đu mình trên những sợi tơ giăng giăng bên bờ suối, trông xa như những con cá vảy bạc mắc lưới trên dòng Pang Pơi mà chúng tôi được thấy vào hôm trước khi theo bà con đi đánh cá thì tiếng giã bánh dày đã thậm thịch đánh thức bình minh cả bản. Tết cổ truyền của người Hà Nhì chẳng thể thiếu bánh dày. Bánh làm từ cơm nếp trộn với vừng rang thơm nức, giã nhuyễn thủ công bằng cối đá chôn ở góc nhà. Hớn hở nhất là tụi trẻ con. Chúng cứ líu tíu quanh mẹt bánh hôi hổi, thơm phức đang mỗi lúc một đầy thêm, thi thoảng nhón tay véo một góc bỏ tọt vào miệng nhai nhóp nhép.

Tiếng canh cách “tố xà” (cạn chén) nhà trên của cánh đàn ông, khách khứa và tiếng xào nấu nhà dưới của cánh phụ nữ cứ đều đặn lặp hết Tết mới thôi. Người dưới xuôi lên Tả Kố Khừ những ngày này có rượu chảy tràn như dòng Mo Phí tiếp đãi nồng hậu. Về nhà bà Sừng Kim Thu, một số người lớn vẫn còn dọn dẹp, có cô cháu gái đang ngồi đun nước trong bếp. Ánh lửa bập bùng lấp loáng gương mặt thiếu nữ miền sơn cước, tôi thoáng liên tưởng đến Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mỵ trong ngày Tết phải ở nhà làm việc, cặm cụi nơi xó bếp, không được xúng xính áo quần đi chơi xuân theo những điệu kèn môi mời gọi.

Và cách "ăn" Tết của người Hà Nhì

Tết cổ truyền, người Hà Nhì thường treo “pín” lợn (nếu là lợn đực) trước nhà, báo hiệu đã mổ lợn ăn Tết. Trước đó, nước pha rượu, gạo trộn với muối sẽ được mang ra rắc vào tai, mõm… nó. Người ta gọi đó là “làm lý”. Ông Pờ Sí Tài - người mà mươi chục năm trước đã có công tìm ra mảnh đất màu mỡ và thuyết phục bà con di cư từ trên Tả Ló San về đây định cư, giải thích: "Làm thế để lứa lợn năm sau sẽ ăn nhiều, ăn tốt hơn năm trước".

Thủ lợn trước khi được cắt lìa khỏi cổ, người mổ dập trở lại. Tương ứng, cứ lợn một tạ thì dập hai lần, lợn hai tạ thì bốn lần để cầu mong lứa lợn năm sau sẽ to gấp hai, ba năm cũ. Gan là bộ phận rất được coi trọng, bởi người đàn ông nhiều kinh nghiệm trong gia đình nhìn vào đó có thể biết được vận hạn của cả nhà trong năm tới.

Ban thờ của người Hà Nhì đặt ở đầu giường nhà trai trưởng. Một dòng họ chỉ có một ban thờ đó, ngoài ra các anh em không đặt ban thờ riêng tại gia. Dịp lễ tết, họ hàng tập trung ở nhà trai trưởng làm lễ cúng bái, nhưng không có hương khói nghi ngút. Ban thờ không thể thiếu thịt lợn, bánh cha lê (bánh trôi), ngoài ra cũng không thể thiếu rượu, gạo và lá chè tươi.

Ăn trọn vẹn cái Tết mới thấy hết tài chế biến của người phụ nữ Hà Nhì. Họ có thể làm thuần thục vài chục món ăn chỉ từ nguyên liệu là thịt lợn, mà mỗi món có hương vị và cách kết hợp chế biến khác nhau.

Thậm chí “A ga xà be” - tên một loại nước chấm, chỉ có vào ngày Tết cũng được làm từ thịt lợn trộn với vài loại thảo quả cay cay, nồng nồng ăn lạ và hấp dẫn. Ba ngày tết, ngày nào gia chủ cũng bày biện cỗ ba bữa với thực đơn giống nhau, quan trọng nhất là phải đủ thịt lợn nghi ngút khói và rượu cả can đặt cạnh bàn ăn…

Người Hà Nhì ăn Tết theo lịch Mặt trăng - Âm lịch, nên những chiếc bánh dày làm ra là tượng trưng cho Mặt trăng. Pờ Hùng Sang, chàng trai bản có thân hình rắn rỏi cho biết: bánh dày làm trong dịp Tết để mong có một năm đủ đầy, tròn vẹn. Tối ngày Tết đầu tiên, nhập mâm là phải uống đủ ba chén rượu, cứ mỗi chén là một cái nắm tay thật chặt, người nào không uống được thì phải chịu hình phạt bằng cách ăn một xâu thịt mỡ. Gian bếp tưng bừng tiếng hò dô “tố xà” cùng lời chúc luôn luôn “chú mừ chú xá, à kha pi pô” – chúc mừng năm mới, chúc mừng sức khỏe.

Ăn trọn vẹn một cái Tết với người Hà Nhì, ấn tượng những món thịt được chế biến vô cùng độc đáo, nhất là cơm Hà Nhì. Gạo tẻ nương chỉ xát một lần nên vẫn giữ được những vệt đỏ. Trần gạo qua nước sôi cho nở ra trước khi đưa vào thố hấp vì thế cơm ăn dẻo, ngọt và thơm. Và phải là người phụ nữ giỏi bếp núc mới nấu được thố cơm ngon thết khách ăn một lần nhớ mãi.

Đến bất cứ thành phố nào, chúng ta cũng có thể bắt gặp những chợ quê trong phố. Những người bán hàng không chỉ mang về chợ sản phẩm của làng quê mà còn cả giọng nói, cử chỉ mộc mạc, dáng vẻ chân chất, lam lũ của người quê.

Những chợ quê trong phố thường được gọi là chợ chồm hổm hay chợ đường phố. Hàng hóa bày ngay dưới đất, trên một lớp ni lông hay lớp lá chuối. Người bán, dù có cái đòn gánh hoặc có thể kê dép nhưng chẳng mấy khi ngồi, cứ chồm hổm cho tiện. Còn khách mua cũng chồm hổm để mua cho nhanh.

Gần nhà tôi (TP Nha Trang) cũng có một chợ như thế. Quen thuộc đến độ người trong xóm chẳng mấy khi ra chợ chính. Sản phẩm được bán nhiều nhất ở chợ hẻm này là hàng rau: rau muống, mồng tơi, rau đay, rau ngót, cải bẹ, xà lách, tần ô…mùa nào thức ấy.
Bên cạnh đó là các lọai củ quả: su hào, cà chua, giá đỗ, hành khô, măng tươi, cà pháo, trứng gà ta…

Rau củ nhiều mấy cũng mau chóng hết veo bởi sản hàng tươi non và giá rẻ. Bên cạnh là hàng đậu phụ. Những miếng đậu đều chằn chặn, thơm mát, giá rất phải chăng. Ngoài ra còn có sữa đậu nành, chỉ  2.000đ một bịch.

Chợ chỉ họp buổi sáng nên các món điểm tâm rất phong phú. Một dãy hàng ăn san sát, chiếm gần hết vỉa hè bên trái: phở, bún cá, bánh canh, bún bò, mì Quảng …

Cạnh đó là hàng bánh: bánh chưng, bánh giò, bánh dày, bánh ít, bánh ướt, bánh bèo. Hàng xôi có xôi bắp, xôi gấc, xôi đậu, xôi vò…Thứ gì nhìn cũng bắt mắt, ngon mà giá lại "mềm". Ít tiền thì ăn chừng 2.000đ - 3.000đ bánh ướt, 4.000đ - 5.000đ xôi, khá hơn có thể ăn tô bánh canh 7.000đ - 8.000đ. Đắt nhất là phở, bún bò hay mì Quảng cũng chỉ từ 13.000đ - 15.000đ/ tô.

Hàng tươi sống có một dãy riêng. Chợ nhỏ mà có đủ thứ, nhiều nhất là các lọai cá biển: Cá thu, cá ngân, cá bạc má, cá hồng, tôm tép, mực, sò, ốc… đôi khi có cả cua, ghẹ, tôm tích…

Hải sản được đưa về từ cảng cá nên giá chỉ bằng giá ở chợ lớn, có khi rẻ hơn. Tôm to bằng ngón tay, nhảy tanh tách cũng chỉ 70.000đ - 80.000đ/kg. Ở đây cũng bán các loại cá sông như cá chép, cá trôi, cá mè, cá diếc, cá lóc. Vỉa hè bên phải dành cho hàng thịt với đủ các lọai thịt heo, bò, gà, vịt…

Trái cây ở chợ hẻm này cũng khá phong phú, mùa nào thức ấy: chuối tiêu, chuối mốc, chuối sứ, chuối ngự, mãng cầu, cam, táo, lê, đu đủ, sapôche…Thỉnh thoảng có đào, nho tươi, xoài, vú sữa…Vào những ngày rằm mồng một còn có hoa tươi, hoa cúng , hoa cắm, hoa lễ chùa… Gần đó là hàng gạo và đồ khô. Từ những lọai gạo sang như nàng hương, tám thơm, tài nguyên …đến các lọai gạo thường, gạo nở…đều có.

Sát ngay lối vào hẻm là hàng quần áo, giá cực rẻ: 15.000đ đến 20.000đ là mua được cái quần hay cái áo mặc được, thậm chí khá kiểu cách. Đồ bộ chỉ khoảng 30.000 - 40.000đ, tha hồ chọn. Bên cạnh đó là đủ thứ hàng tạp hóa: khăn mặt, xà bông, mũ, nón, giày dép, kính mát, vòng cổ, hoa tai…Không thiếu thứ gì mà giá cả lại rất "mềm". Thỉnh thoảng, những người bán đồ xôn đổ xuống cả lô những sản phẩm "quá đát", lựa mệt nghỉ: áo lạnh, mũ len, quần iean, đồ bộ, áo đầm, giày cao gót …Giá rẻ khó cầm lòng khiến nhiều “thượng đế” tần ngần rồi quyết định mở bóp.

Điểm đặc biệt nữa của chợ quê: Không nói thách. Người bán, người mua đều quá quen nhau, thách làm gì. Người bán lấy hàng tận gốc nên giá nới hơn, chỉ cần kiếm mỗi ngày dăm chục lãi là đủ. Người mua nhìn những khuôn mặt người bán sạm nắng, những bàn chân đen đúa, nứt nẻ, cảm thấy đôi chút xót xa. Thêm bớt làm gì vài trăm bạc lẻ.

Có lẽ vì vậy mà chợ nói chung, chợ quê trong phố nói riêng là một trong những nét độc đáo mà du khách thích tìm hiểu đời sống mong muốn được khám phá khi đến bất cứ thành phố nào.

Đến bất cứ thành phố nào, chúng ta cũng có thể bắt gặp những chợ quê trong phố. Những người bán hàng không chỉ mang về chợ sản phẩm của làng quê mà còn cả giọng nói, cử chỉ mộc mạc, dáng vẻ chân chất, lam lũ của người quê.

Những chợ quê trong phố thường được gọi là chợ chồm hổm hay chợ đường phố. Hàng hóa bày ngay dưới đất, trên một lớp ni lông hay lớp lá chuối. Người bán, dù có cái đòn gánh hoặc có thể kê dép nhưng chẳng mấy khi ngồi, cứ chồm hổm cho tiện. Còn khách mua cũng chồm hổm để mua cho nhanh.

Gần nhà tôi (TP Nha Trang) cũng có một chợ như thế. Quen thuộc đến độ người trong xóm chẳng mấy khi ra chợ chính. Sản phẩm được bán nhiều nhất ở chợ hẻm này là hàng rau: rau muống, mồng tơi, rau đay, rau ngót, cải bẹ, xà lách, tần ô…mùa nào thức ấy.
Bên cạnh đó là các lọai củ quả: su hào, cà chua, giá đỗ, hành khô, măng tươi, cà pháo, trứng gà ta…

Rau củ nhiều mấy cũng mau chóng hết veo bởi sản hàng tươi non và giá rẻ. Bên cạnh là hàng đậu phụ. Những miếng đậu đều chằn chặn, thơm mát, giá rất phải chăng. Ngoài ra còn có sữa đậu nành, chỉ  2.000đ một bịch.

Chợ chỉ họp buổi sáng nên các món điểm tâm rất phong phú. Một dãy hàng ăn san sát, chiếm gần hết vỉa hè bên trái: phở, bún cá, bánh canh, bún bò, mì Quảng …

Cạnh đó là hàng bánh: bánh chưng, bánh giò, bánh dày, bánh ít, bánh ướt, bánh bèo. Hàng xôi có xôi bắp, xôi gấc, xôi đậu, xôi vò…Thứ gì nhìn cũng bắt mắt, ngon mà giá lại "mềm". Ít tiền thì ăn chừng 2.000đ - 3.000đ bánh ướt, 4.000đ - 5.000đ xôi, khá hơn có thể ăn tô bánh canh 7.000đ - 8.000đ. Đắt nhất là phở, bún bò hay mì Quảng cũng chỉ từ 13.000đ - 15.000đ/ tô.

Hàng tươi sống có một dãy riêng. Chợ nhỏ mà có đủ thứ, nhiều nhất là các lọai cá biển: Cá thu, cá ngân, cá bạc má, cá hồng, tôm tép, mực, sò, ốc… đôi khi có cả cua, ghẹ, tôm tích…

Hải sản được đưa về từ cảng cá nên giá chỉ bằng giá ở chợ lớn, có khi rẻ hơn. Tôm to bằng ngón tay, nhảy tanh tách cũng chỉ 70.000đ - 80.000đ/kg. Ở đây cũng bán các loại cá sông như cá chép, cá trôi, cá mè, cá diếc, cá lóc. Vỉa hè bên phải dành cho hàng thịt với đủ các lọai thịt heo, bò, gà, vịt…

Trái cây ở chợ hẻm này cũng khá phong phú, mùa nào thức ấy: chuối tiêu, chuối mốc, chuối sứ, chuối ngự, mãng cầu, cam, táo, lê, đu đủ, sapôche…Thỉnh thoảng có đào, nho tươi, xoài, vú sữa…Vào những ngày rằm mồng một còn có hoa tươi, hoa cúng , hoa cắm, hoa lễ chùa… Gần đó là hàng gạo và đồ khô. Từ những lọai gạo sang như nàng hương, tám thơm, tài nguyên …đến các lọai gạo thường, gạo nở…đều có.

Sát ngay lối vào hẻm là hàng quần áo, giá cực rẻ: 15.000đ đến 20.000đ là mua được cái quần hay cái áo mặc được, thậm chí khá kiểu cách. Đồ bộ chỉ khoảng 30.000 - 40.000đ, tha hồ chọn. Bên cạnh đó là đủ thứ hàng tạp hóa: khăn mặt, xà bông, mũ, nón, giày dép, kính mát, vòng cổ, hoa tai…Không thiếu thứ gì mà giá cả lại rất "mềm". Thỉnh thoảng, những người bán đồ xôn đổ xuống cả lô những sản phẩm "quá đát", lựa mệt nghỉ: áo lạnh, mũ len, quần iean, đồ bộ, áo đầm, giày cao gót …Giá rẻ khó cầm lòng khiến nhiều “thượng đế” tần ngần rồi quyết định mở bóp.

Điểm đặc biệt nữa của chợ quê: Không nói thách. Người bán, người mua đều quá quen nhau, thách làm gì. Người bán lấy hàng tận gốc nên giá nới hơn, chỉ cần kiếm mỗi ngày dăm chục lãi là đủ. Người mua nhìn những khuôn mặt người bán sạm nắng, những bàn chân đen đúa, nứt nẻ, cảm thấy đôi chút xót xa. Thêm bớt làm gì vài trăm bạc lẻ.

Có lẽ vì vậy mà chợ nói chung, chợ quê trong phố nói riêng là một trong những nét độc đáo mà du khách thích tìm hiểu đời sống mong muốn được khám phá khi đến bất cứ thành phố nào.

Mỗi độ xuân về, chuẩn bị đưa tiễn năm cũ và đón mừng năm mới cộng đồng người Xơ-đăng sống trên dải Trường Sơn-Tây Nguyên vui mừng tổ chức lễ hội mừng sức khoẻ đầu năm để cúng Giàng, thần linh, tổ tiên ông bà cầu mong cho người Xơ-đăng luôn được khoẻ mạnh, vượt qua mọi sự khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên, thú dữ, cộng đồng luôn đoàn kết...

Theo truyền thống của cộng đồng dân tộc Xơ-đăng cứ vào mùa khô năm trước (khoảng tháng 10, 11 và tháng 12) đến thời điểm của mùa khô năm sau (khoảng tháng 2, 3, 4 và tháng 5), Hội đồng già làng họp lại chọn lấy ngày trăng sáng, đây là những ngày đẹp nhất để tổ chức làm lễ mừng sức khoẻ đầu năm.

Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày 3 đêm với cả làng tham dự.

Để có lễ vật dâng cúng Giàng, thần linh và tổ chức lễ hội được chu đáo, dân làng phải chuẩn bị rượu ngon, các loại thức ăn khô như: măng, cá; thịt và cả heo, gà... hằng tháng trời trước đó. Theo truyền thống, mỗi nóc (mỗi nóc có từ 20-30 gia đình sinh sống) được giao một việc, nóc thì lo sửa chữa lại máng nước, nóc thì lo trang trí lại nhà Rông, nóc thì lo vào rừng tìm cây về để làm cây nêu, nóc thì lo đi mua trâu, đàn bà, con gái thì lo giã lúa mới lấy gạo gói bánh, xuống suối bắt thêm cá, ốc, hái thêm rau... lễ hội này thường diễn ra như sau:

Ngày thứ nhất: Hội đồng già làng và một số người già lớn tuổi am hiểu về phong tục tập quán của người Xơ-đăng hướng dẫn một số thanh niên khoẻ mạnh làm cây nêu, trang trí lại nhà Rông, cồng chiêng được đem ra lau chùi và thử lại tiếng, tập xoang (múa), ca hát... đồng thời cũng tại nhà Rông, một ché rượu thiêng và một con gà trống to cũng được đem đến và được đặt ngay ngắn tại giữa nhà để chuẩn bị làm lễ. Tại đây, Hội đồng già làng dùng dao cắt tiết gà, một ít đổ vào ché rượu thiêng, còn lại đổ vào tô lớn.

Khi gà bị cắt tiết, một số người lớn tuổi lần lượt đọc những câu cầu khấn với nội dung hàm ý tỏ lòng thành kính đối với Giàng, ông bà tổ tiên. Họ đổ ít rượu thiêng trong ché ra vào tô đựng tiết gà trộn đều rồi cùng nhau xuống chỗ đào cây nêu để chuẩn bị làm lễ dựng cây nêu.

Trên tô tiết gà, người ta cắm vào đó một ngọn đèn bằng sáp ong. Ngọn đèn được đốt lên, già làng dùng tay nâng chén tiết gà lên đọc lời khấn, cùng lúc các chàng trai, cô gái và dân làng nối nhau thành một vòng tròn (nghi lễ này được thực hiện lại vào ngày thứ 2), cây nêu được dựng lên và cùng lúc trâu cũng được đem cột vào cây nêu, dê cũng được đem cột vào các cột cây Pơlang theo chiều dọc và có bao nhiêu dê thì có bấy nhiêu cây Pơlang được trồng. Vì vậy, có dịp đến các bản làng của người Xơ-đăng có rất nhiều cây Pơlang được trồng, đây là dấu hiệu của một làng no đủ và giàu có, tinh thần đoàn kết cao, ăn nên làm ra, thương yêu và đùm bọc nhau.

Ngày thứ hai: Từ sáng sớm, mọi người trong các nóc đã cơm nước xong. Cồng chiêng, trống từ nhà Rông được lấy xuống, dân làng trong bộ trang phục truyền thống đã có mặt đầy đủ trước nhà Rông.

Trống, cồng chiêng nổi lên, già làng hướng dẫn một số trai tráng khoẻ mạnh, những thanh niên này sẽ thực hiện việc đâm trâu và bắn dê sau đó nhảy múa. Những vòng xoang được nối nhau, già làng vừa di chuyển vừa ném những nắm gạo vào cho trâu vừa dùng giáo đâm vào đùi trâu trong tiếng hò reo của dân làng vang vọng cả núi rừng. Sau động tác này, ông lại chuyển giáo cho những người có uy tín trong làng và những thanh niên được chọn lần lượt dùng giáo đâm vào trâu, trong tiếng trống, cồng chiêng và họ đâm khi trâu chết hẳn thì mới thôi. Cùng lúc một nhóm thanh niên khác cũng trong tư thế sẵn sàng từng người một dùng ná bắn vào dê cho đến chết.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, nếu trâu bị đâm trúng tim chết và gục xuống đất ngay thì cả làng năm đó sức khoẻ dồi dào, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống và công việc làm ăn, dân làng đoàn kết... Thanh niên nào đâm trúng tim trâu thì được cả làng tôn vinh dũng sĩ với hàm ý Giàng ông bà, tổ tiên đã cho họ một năm với sức khoẻ dồi dào và hạnh phúc.

Trâu, dê được đem đi xẻ thịt, trong làng có bao nhiêu nóc, mỗi nóc có bao nhiêu người cũng được chia phần bằng nhau. Phần tim, gan, bộ lòng của trâu để Hội đồng già làng dùng và tiếp khách, phần còn lại được chế biến các món ăn truyền thống ngay tại nhà Rông để dân làng bà con, anh em và cả khách mời có dịp vui chơi ăn uống thoả thích. Riêng đầu trâu sẽ được bố trí lại để cho ngày hôm sau (ngày kết thúc). Họ vừa ăn, uống vừa chúc sức khoẻ nhau, hỏi thăm công việc nương rẫy. Nhân dịp này, những thanh niên, thiếu nữ Xơ-đăng chưa chồng, chưa vợ có điều kiện tìm hiểu, quen nhau và kết duyên chồng vợ.

Ngày thứ 3: Đầu trâu được xẻ và chế biến tại nhà Rông để cho Hội đồng già làng và những người có uy tín trong làng ngồi lại bàn bạc và trao đổi rút kinh nghiệm. Đầu trâu được đem treo ở vách nhà Rông. Đến đây lễ hội mừng sức khoẻ đầu năm chấm dứt.

Lễ hội mừng sức khoẻ đầu năm không chỉ là nghi lễ cầu cho làng bản, cho gia đình và cộng đồng luôn khoẻ mạnh mà còn giải toả mọi tâm lý sợ hãi, ám ảnh của các thế lực siêu nhiên, mang lại sự an bình trong cuộc sống của mọi nhà, mọi gia đình và cộng đồng. Nghi lễ mừng sức khoẻ đầu năm từ lâu đã ăn sâu vào cuộc sống và tiềm thức của cộng đồng dân tộc Xơ-đăng. Nét văn hoá cổ truyền, độc đáo này luôn được người Xơ-đăng gìn giữ và trân trọng.

Theo Cema, ảnh internet

Mỗi độ xuân về, chuẩn bị đưa tiễn năm cũ và đón mừng năm mới cộng đồng người Xơ-đăng sống trên dải Trường Sơn-Tây Nguyên vui mừng tổ chức lễ hội mừng sức khoẻ đầu năm để cúng Giàng, thần linh, tổ tiên ông bà cầu mong cho người Xơ-đăng luôn được khoẻ mạnh, vượt qua mọi sự khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên, thú dữ, cộng đồng luôn đoàn kết...

Theo truyền thống của cộng đồng dân tộc Xơ-đăng cứ vào mùa khô năm trước (khoảng tháng 10, 11 và tháng 12) đến thời điểm của mùa khô năm sau (khoảng tháng 2, 3, 4 và tháng 5), Hội đồng già làng họp lại chọn lấy ngày trăng sáng, đây là những ngày đẹp nhất để tổ chức làm lễ mừng sức khoẻ đầu năm.

Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày 3 đêm với cả làng tham dự.

Để có lễ vật dâng cúng Giàng, thần linh và tổ chức lễ hội được chu đáo, dân làng phải chuẩn bị rượu ngon, các loại thức ăn khô như: măng, cá; thịt và cả heo, gà... hằng tháng trời trước đó. Theo truyền thống, mỗi nóc (mỗi nóc có từ 20-30 gia đình sinh sống) được giao một việc, nóc thì lo sửa chữa lại máng nước, nóc thì lo trang trí lại nhà Rông, nóc thì lo vào rừng tìm cây về để làm cây nêu, nóc thì lo đi mua trâu, đàn bà, con gái thì lo giã lúa mới lấy gạo gói bánh, xuống suối bắt thêm cá, ốc, hái thêm rau... lễ hội này thường diễn ra như sau:

Ngày thứ nhất: Hội đồng già làng và một số người già lớn tuổi am hiểu về phong tục tập quán của người Xơ-đăng hướng dẫn một số thanh niên khoẻ mạnh làm cây nêu, trang trí lại nhà Rông, cồng chiêng được đem ra lau chùi và thử lại tiếng, tập xoang (múa), ca hát... đồng thời cũng tại nhà Rông, một ché rượu thiêng và một con gà trống to cũng được đem đến và được đặt ngay ngắn tại giữa nhà để chuẩn bị làm lễ. Tại đây, Hội đồng già làng dùng dao cắt tiết gà, một ít đổ vào ché rượu thiêng, còn lại đổ vào tô lớn.

Khi gà bị cắt tiết, một số người lớn tuổi lần lượt đọc những câu cầu khấn với nội dung hàm ý tỏ lòng thành kính đối với Giàng, ông bà tổ tiên. Họ đổ ít rượu thiêng trong ché ra vào tô đựng tiết gà trộn đều rồi cùng nhau xuống chỗ đào cây nêu để chuẩn bị làm lễ dựng cây nêu.

Trên tô tiết gà, người ta cắm vào đó một ngọn đèn bằng sáp ong. Ngọn đèn được đốt lên, già làng dùng tay nâng chén tiết gà lên đọc lời khấn, cùng lúc các chàng trai, cô gái và dân làng nối nhau thành một vòng tròn (nghi lễ này được thực hiện lại vào ngày thứ 2), cây nêu được dựng lên và cùng lúc trâu cũng được đem cột vào cây nêu, dê cũng được đem cột vào các cột cây Pơlang theo chiều dọc và có bao nhiêu dê thì có bấy nhiêu cây Pơlang được trồng. Vì vậy, có dịp đến các bản làng của người Xơ-đăng có rất nhiều cây Pơlang được trồng, đây là dấu hiệu của một làng no đủ và giàu có, tinh thần đoàn kết cao, ăn nên làm ra, thương yêu và đùm bọc nhau.

Ngày thứ hai: Từ sáng sớm, mọi người trong các nóc đã cơm nước xong. Cồng chiêng, trống từ nhà Rông được lấy xuống, dân làng trong bộ trang phục truyền thống đã có mặt đầy đủ trước nhà Rông.

Trống, cồng chiêng nổi lên, già làng hướng dẫn một số trai tráng khoẻ mạnh, những thanh niên này sẽ thực hiện việc đâm trâu và bắn dê sau đó nhảy múa. Những vòng xoang được nối nhau, già làng vừa di chuyển vừa ném những nắm gạo vào cho trâu vừa dùng giáo đâm vào đùi trâu trong tiếng hò reo của dân làng vang vọng cả núi rừng. Sau động tác này, ông lại chuyển giáo cho những người có uy tín trong làng và những thanh niên được chọn lần lượt dùng giáo đâm vào trâu, trong tiếng trống, cồng chiêng và họ đâm khi trâu chết hẳn thì mới thôi. Cùng lúc một nhóm thanh niên khác cũng trong tư thế sẵn sàng từng người một dùng ná bắn vào dê cho đến chết.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, nếu trâu bị đâm trúng tim chết và gục xuống đất ngay thì cả làng năm đó sức khoẻ dồi dào, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống và công việc làm ăn, dân làng đoàn kết... Thanh niên nào đâm trúng tim trâu thì được cả làng tôn vinh dũng sĩ với hàm ý Giàng ông bà, tổ tiên đã cho họ một năm với sức khoẻ dồi dào và hạnh phúc.

Trâu, dê được đem đi xẻ thịt, trong làng có bao nhiêu nóc, mỗi nóc có bao nhiêu người cũng được chia phần bằng nhau. Phần tim, gan, bộ lòng của trâu để Hội đồng già làng dùng và tiếp khách, phần còn lại được chế biến các món ăn truyền thống ngay tại nhà Rông để dân làng bà con, anh em và cả khách mời có dịp vui chơi ăn uống thoả thích. Riêng đầu trâu sẽ được bố trí lại để cho ngày hôm sau (ngày kết thúc). Họ vừa ăn, uống vừa chúc sức khoẻ nhau, hỏi thăm công việc nương rẫy. Nhân dịp này, những thanh niên, thiếu nữ Xơ-đăng chưa chồng, chưa vợ có điều kiện tìm hiểu, quen nhau và kết duyên chồng vợ.

Ngày thứ 3: Đầu trâu được xẻ và chế biến tại nhà Rông để cho Hội đồng già làng và những người có uy tín trong làng ngồi lại bàn bạc và trao đổi rút kinh nghiệm. Đầu trâu được đem treo ở vách nhà Rông. Đến đây lễ hội mừng sức khoẻ đầu năm chấm dứt.

Lễ hội mừng sức khoẻ đầu năm không chỉ là nghi lễ cầu cho làng bản, cho gia đình và cộng đồng luôn khoẻ mạnh mà còn giải toả mọi tâm lý sợ hãi, ám ảnh của các thế lực siêu nhiên, mang lại sự an bình trong cuộc sống của mọi nhà, mọi gia đình và cộng đồng. Nghi lễ mừng sức khoẻ đầu năm từ lâu đã ăn sâu vào cuộc sống và tiềm thức của cộng đồng dân tộc Xơ-đăng. Nét văn hoá cổ truyền, độc đáo này luôn được người Xơ-đăng gìn giữ và trân trọng.

Theo Cema, ảnh internet

Vùng rừng núi Yên Thế phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang xưa kia non cao hiểm trở, xa cách kinh thành Thăng Long.

< Thế võ sáo “Phượng hoàng hạch đỉnh” (Chim phượng hòa bay trên đỉnh núi).

Trong sử sách thời Lê (1428 - 1527), qua tác phẩm "Dư địa chí", danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi (1428 - 1527) từng ngợi ca về vùng đất thượng võ Yên Thế. Chính tại nơi đây, vào quãng thời gian từ cuối thế kỷ XIX tới đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa Yên Thế của người anh hùng nông dân áo vải Hoàng Hoa Thám đã lưu danh vào sử sách. Và cũng chính tại mảnh đất này đã sản sinh ra một môn võ bí truyền của dân tộc, đó là võ sáo.

< Võ sư Trịnh Như Quân thổi bài sáo “Bóng trăng Phồn Xương”  bằng cây sáo sắt "Rồng giun"  dài hơn 2m, nặng 5kg.

Thế nhưng mấy ai đã được chứng kiến và thưởng thức một sản phẩm đầy chất thơ, chất huyền thoại lãng mạn nhưng cũng đầy hào khí của nhà binh nơi trận mạc. Một sản phẩm đầy chất thơ, chất huyền thoại lãng mạn nhưng cũng là một loại hình võ thuật mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc hiện đang được khôi phục trên quê hương của cụ Đề Thám.

Võ sáo không sử dụng sáo bằng tre, trúc đơn thuần mà phải bằng sắt, rất to và nặng. Cách sử dụng các đòn thế tương tự phương thức của đao kiếm và thấp thoáng bóng dáng của đoản côn. Nét độc đáo nhất của võ sáo là được sử dụng trong giai điệu nhạc cổ truyền của dân tộc. Khi thể hiện ngón võ này, ngoài những công phu trong võ thuật, người võ sĩ còn phải là một nghệ sĩ thả hồn trong những bản nhạc du dương, lãng mạn, bay bổng mà vẫn không quên mình đang là một tráng sĩ oai hùng giết giặc nơi sa trường.

Thẹo cụ Triệu Quốc Úy, lúc đầu bài võ sáo có tên là "Thiết địch thần phong ngọc tiêu điện khải", tức có nghĩa là cây sáo sắt mạnh như ngọn gió thần với những tiếng sáo du dương huyền diệu. Sau đó bài võ sáo này được đổi tên thành "Bóng trăng Phồn Xương", gắn với địa danh kháng chiến nổi tiếng của nghĩa quân Yên Thế.

Võ sư Trịnh Như Quân chia sẻ: “Có khi là đánh nhau nhưng vì một bài sáo thôi mà cả những đám tàn quân, thổ phỉ hay là quân giặc đều thấy chán ngán muốn trở về quê hương. Tùy theo nỗi lòng của người tráng sĩ ấy mà nó nhắc nhủ hoặc làm một công việc chính trị nào đó thì phải lãng mạn như thế mà lại cảm hóa được quân địch, vừa là có uy thế với quân địch”.

Qua tiếng sáo, người nghe có thể cảm nhận được nội lực, khí lực của người thổi sáo. Người luyện võ sáo đến độ tinh thông có thể điều khiển cây sáo sắt theo ý muốn, khi uyển chuyển, khi ào ạt mạnh mẽ như vũ bão, lúc lại mềm mại hư ảo khiến cho đối phương không thể đoán định được. Với những giá trị như vậy, năm 1993, võ sáo chính thức được ghi danh vào “sổ tay võ thuật toàn quốc”. Sau gần 1 thế kỷ vắng bóng, môn võ thuật này đang dần được khôi phục trở lại trên quê hương của cụ Đề Thám thông qua những lớp truyền dạy cho các thế hệ kế cận.

Võ sư Trịnh Như Quân nay 59 tuổi, đã phát triển nâng tầm võ sáo đạt đến mức hoàn chỉnh, nhuần nhuyễn và  tinh diệu cả về âm nhạc và võ thuật. Ông cho biết, sáo sắt thời nghĩa quân Yên Thế xưa dài khoảng 65cm - 70cm, nặng 0,4kg như một cây mã tấu. Sáo sắt có thể dùng để đánh, đỡ, đâm... Bình thường, sáo sắt có thể dùng làm nhạc khí, nhưng khi có biến nó trở thành thứ vũ khí lợi hại lúc cương, lúc nhu, uyển chuyển vô cùng.

< Thế võ sáo “Đầm trên nước” (Đá thế hoa sen quỳ).

Sau quá trình mày mò tìm hiểu nghiên cứu, võ sư Trịnh Như Quân đã chế ra những cây sáo sắt đặc biệt hơn, có kích thước và trọng lượng lớn hơn. Ví dụ như cây sáo "Tiêu Tương" dài 1,6m, nặng 4kg; cây sáo "Cõi Thiên Thai" nặng 3,5kg. Đặc biệt, cây sáo "Rồng giun" dài hơn 2m, nặng 5kg có âm thanh chuẩn, có thể hòa tấu cùng dàn nhạc hiện đại.

Ông Lê Trí Dũng - Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Thế, Bắc Giang cho biết: “Chúng tôi đang tổ chức các câu lạc bộ Võ sáo để phát huy giá trị văn hóa về mặt tinh thần, ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân các dân tộc Yên Thế chống thực dân Pháp đồng thời cũng là sinh hoạt truyền thống của một vùng quê nổi danh Yên Thế anh hùng.”

Những thế hệ nhỏ tuổi nơi đây rồi sẽ lại tiếp bước truyền thống cha ông oai hùng, gìn giữ, phát huy môn võ cổ truyền đầy chất huyền bí của người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám năm xưa. “Bóng trăng phồn xương” - bài võ bí truyền của môn võ sáo giờ đây sẽ không chỉ vang bóng một thời mà sẽ nó tiếp tục được thăng hoa, tỏa sáng bởi những thế hệ hậu duệ.

Theo VTV, VNA...

Vùng rừng núi Yên Thế phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang xưa kia non cao hiểm trở, xa cách kinh thành Thăng Long.

< Thế võ sáo “Phượng hoàng hạch đỉnh” (Chim phượng hòa bay trên đỉnh núi).

Trong sử sách thời Lê (1428 - 1527), qua tác phẩm "Dư địa chí", danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi (1428 - 1527) từng ngợi ca về vùng đất thượng võ Yên Thế. Chính tại nơi đây, vào quãng thời gian từ cuối thế kỷ XIX tới đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa Yên Thế của người anh hùng nông dân áo vải Hoàng Hoa Thám đã lưu danh vào sử sách. Và cũng chính tại mảnh đất này đã sản sinh ra một môn võ bí truyền của dân tộc, đó là võ sáo.

< Võ sư Trịnh Như Quân thổi bài sáo “Bóng trăng Phồn Xương”  bằng cây sáo sắt "Rồng giun"  dài hơn 2m, nặng 5kg.

Thế nhưng mấy ai đã được chứng kiến và thưởng thức một sản phẩm đầy chất thơ, chất huyền thoại lãng mạn nhưng cũng đầy hào khí của nhà binh nơi trận mạc. Một sản phẩm đầy chất thơ, chất huyền thoại lãng mạn nhưng cũng là một loại hình võ thuật mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc hiện đang được khôi phục trên quê hương của cụ Đề Thám.

Võ sáo không sử dụng sáo bằng tre, trúc đơn thuần mà phải bằng sắt, rất to và nặng. Cách sử dụng các đòn thế tương tự phương thức của đao kiếm và thấp thoáng bóng dáng của đoản côn. Nét độc đáo nhất của võ sáo là được sử dụng trong giai điệu nhạc cổ truyền của dân tộc. Khi thể hiện ngón võ này, ngoài những công phu trong võ thuật, người võ sĩ còn phải là một nghệ sĩ thả hồn trong những bản nhạc du dương, lãng mạn, bay bổng mà vẫn không quên mình đang là một tráng sĩ oai hùng giết giặc nơi sa trường.

Thẹo cụ Triệu Quốc Úy, lúc đầu bài võ sáo có tên là "Thiết địch thần phong ngọc tiêu điện khải", tức có nghĩa là cây sáo sắt mạnh như ngọn gió thần với những tiếng sáo du dương huyền diệu. Sau đó bài võ sáo này được đổi tên thành "Bóng trăng Phồn Xương", gắn với địa danh kháng chiến nổi tiếng của nghĩa quân Yên Thế.

Võ sư Trịnh Như Quân chia sẻ: “Có khi là đánh nhau nhưng vì một bài sáo thôi mà cả những đám tàn quân, thổ phỉ hay là quân giặc đều thấy chán ngán muốn trở về quê hương. Tùy theo nỗi lòng của người tráng sĩ ấy mà nó nhắc nhủ hoặc làm một công việc chính trị nào đó thì phải lãng mạn như thế mà lại cảm hóa được quân địch, vừa là có uy thế với quân địch”.

Qua tiếng sáo, người nghe có thể cảm nhận được nội lực, khí lực của người thổi sáo. Người luyện võ sáo đến độ tinh thông có thể điều khiển cây sáo sắt theo ý muốn, khi uyển chuyển, khi ào ạt mạnh mẽ như vũ bão, lúc lại mềm mại hư ảo khiến cho đối phương không thể đoán định được. Với những giá trị như vậy, năm 1993, võ sáo chính thức được ghi danh vào “sổ tay võ thuật toàn quốc”. Sau gần 1 thế kỷ vắng bóng, môn võ thuật này đang dần được khôi phục trở lại trên quê hương của cụ Đề Thám thông qua những lớp truyền dạy cho các thế hệ kế cận.

Võ sư Trịnh Như Quân nay 59 tuổi, đã phát triển nâng tầm võ sáo đạt đến mức hoàn chỉnh, nhuần nhuyễn và  tinh diệu cả về âm nhạc và võ thuật. Ông cho biết, sáo sắt thời nghĩa quân Yên Thế xưa dài khoảng 65cm - 70cm, nặng 0,4kg như một cây mã tấu. Sáo sắt có thể dùng để đánh, đỡ, đâm... Bình thường, sáo sắt có thể dùng làm nhạc khí, nhưng khi có biến nó trở thành thứ vũ khí lợi hại lúc cương, lúc nhu, uyển chuyển vô cùng.

< Thế võ sáo “Đầm trên nước” (Đá thế hoa sen quỳ).

Sau quá trình mày mò tìm hiểu nghiên cứu, võ sư Trịnh Như Quân đã chế ra những cây sáo sắt đặc biệt hơn, có kích thước và trọng lượng lớn hơn. Ví dụ như cây sáo "Tiêu Tương" dài 1,6m, nặng 4kg; cây sáo "Cõi Thiên Thai" nặng 3,5kg. Đặc biệt, cây sáo "Rồng giun" dài hơn 2m, nặng 5kg có âm thanh chuẩn, có thể hòa tấu cùng dàn nhạc hiện đại.

Ông Lê Trí Dũng - Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Thế, Bắc Giang cho biết: “Chúng tôi đang tổ chức các câu lạc bộ Võ sáo để phát huy giá trị văn hóa về mặt tinh thần, ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân các dân tộc Yên Thế chống thực dân Pháp đồng thời cũng là sinh hoạt truyền thống của một vùng quê nổi danh Yên Thế anh hùng.”

Những thế hệ nhỏ tuổi nơi đây rồi sẽ lại tiếp bước truyền thống cha ông oai hùng, gìn giữ, phát huy môn võ cổ truyền đầy chất huyền bí của người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám năm xưa. “Bóng trăng phồn xương” - bài võ bí truyền của môn võ sáo giờ đây sẽ không chỉ vang bóng một thời mà sẽ nó tiếp tục được thăng hoa, tỏa sáng bởi những thế hệ hậu duệ.

Theo VTV, VNA...

Từ Hà Nội, chúng tôi vượt gần 800 cây số mới đến được cột mốc số 0 ở xã Sín Thầu (Mường Nhé, Điện Biên). Ngã ba biên giới thường ngày lặng im như tờ, tịnh không một bóng người vậy mà trong tháng 12 này, không chỉ ở cột mốc số 0 mà nhiều bản làng Mường Nhé đông rợp người. Rượu tràn cung mây cùng những điệu xòe đón tết của người Hà Nhì.

Tết con rắn Hồ Sự Chà

Đến hẹn lại lên, cứ vào tháng 12 dương lịch hằng năm, người dân tộc Hà Nhì khắp Việt Nam lại vui tết cổ truyền của dân tộc mình. Tây Bắc mùa này hoa trạng nguyên nở rộ khắp các cung đường như món quà tạo hóa ban tặng cho dân bản đón tết.

< Người Hà Nhì làm bánh dày đón tết.

Tết Hà Nhì bao giờ cũng theo lịch dương, không có ngày cố định nhưng lịch được chọn theo ngày giờ đẹp. Tức là ngày rồng, tháng chuột, giờ dê để các trưởng bản già làng và người dân tổ chức đón tết. Tết Hà Nhì còn được gọi với một cái tên mỹ miều và cũng đặc trưng là Hồ Sự Chà.

Người Hà Nhì từ già tới trẻ không ai giải thích được từ Hồ Sự Chà có ý nghĩa cụ thể là gì. Chỉ biết từ đó có nghĩa là tết cổ truyền mà tổ tiên truyền lại. Họ bảo, người Hà Nhì không có con chữ riêng, chỉ có ngôn ngữ nên không biết rõ Hồ Sự Chà là gì.

Nhưng có một điểm giống với người Kinh là họ có lịch 12 con Giáp. Năm trước là tết con rồng thì năm nay là tết con rắn, rồng rắn lên mây nên cách tổ chức cũng gần giống nhau. Tuy rằng, tết Hồ Sự Chà mỗi nơi mỗi khác nhưng tựu chung lại ở một điều, tết không chỉ là thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới mà còn là ngày hội để dân bản tụ họp ăn uống và chúc nhau những lời chúc sức khoẻ, may mắn, thuận lợi và cầu cho đồng ruộng được tốt tươi, ngô sắn đầy nương, con cháu đầy nhà.

Ở Mường Nhé chỉ có 4 xã là có người Hà Nhì. Chúng tôi dọc theo các xã để vui tết, đến đâu cũng thấy rượu và những điệu xòe đẹp đến mê hồn của những thiếu nữ sơn cước có phần kiêu sa trong bộ đồ sặc sỡ sắc màu của dân tộc mình.

Đêm thứ nhất tại xã Leng Su Sìn, một xã giáp ngã ba biên giới chỉ khoảng 20 cây số. Dân cư nơi đây không phải quá đông nhưng cũng không ít. Đêm vui tết, tất cả bản làng quần tụ nhau lại, họ ăn uống hát hò bằng ngôn ngữ riêng của người Hà Nhì.

Ở Sín Thầu vui hơn vì gần như 100% dân cư nơi đây là người Hà Nhì. Họ sống trên những thung lũng rộng lớn ở biên giới. Phía bên kia là Trung Quốc và Lào, bên này là Sín Thầu "đỏ lửa". Sở dĩ, người ta gọi là Sín Thầu "đỏ lửa" vì người bản địa còn giữ được truyền đốt lửa suốt đêm ngày để vui tết Hồ Sự Chà.

"Kha pi pô"

< Trang điểm đón tết.

Những em nhỏ tung tăng trong bộ đồ mới theo chân bố mẹ đi chúc tết. Những sơn nữ đẹp như tranh vẽ thướt tha trên cung đường núi đá như điểm xuyết thêm sắc màu rực rỡ cho vùng mốc số 0. Những cụ già còng lưng chống gậy nhưng tay mang theo chai rượu ngô thơm nức, gặp ai cũng uống, gặp ai cũng chúc "kha pi pô" cách nồng nhiệt.

"Kha pi pô" nghĩa là gì? Giản đơn thôi, đó là chúc sức khoẻ. Người Hà Nhì thường chúc sức khoẻ nhau trong năm mới, nếu nói đủ nghĩa thì phải là "Hồ Sự Chà kha pi pô", nghĩa là chúc mừng năm mới. Cụ già gặp em nhỏ vẫn cúi đầu xin chúc "kha pi pô", nam thanh nữ tú gặp nhau mời uống bát rượu và chúc "kha pi pô", người bản làng gặp khách lạ cũng rót rượu mời uống và chúc "kha pi pô".

Đến cột mốc số 0, người lạ sẽ không còn cảm giác lạ lẫm, cũng không có cảm giác mình là khách. Bởi giản đơn, với người Hà Nhì, tất cả là một, là anh em bản làng. Tết là dịp để đoàn tụ, để uống rượu hỏi thăm và chúc nhau sức khoẻ.

Bất kể bạn là nam hay nữ, lớn hay nhỏ đều phải uống rượu. Khi người đối diện đã rót ra bát, bạn phải uống cạn và đáp lời "kha pi pô". Không khí lạnh vùng biên giới càng như lạnh hơn vào ngày Hồ Sự Chà để bản làng uống thêm bát rượu, ăn thêm phần xôi nếp nương.

Bản ta hát thâu đêm

Giữa ngã ba biên giới hoang lạnh, đêm vui tết Hà Nhì bừng sáng, cả một vệt dài biên giới chói ánh lửa hồng. Tiếng hát vang khắp bản này sang bản khác. Tiếng nhạc, tiếng trống chiêng vang vui phơi phới. Sau khi uống rượu bữa tối, người Hà Nhì tập trung nhau lại để giao lưu văn nghệ. Những bài hát trữ tình của người Hà Nhì vang lên hợp cùng điệu xòe sơn nữ khiến bất kỳ ai cũng phải rung động.

Tôi gặp cô gái Sừng Thị Pi, sơn nữ đẹp nhất bản A Pa Chải của Sín Thầu. Bộ đồ sặc sỡ càng thêm dáng kiêu kỳ với má hồng ánh lửa. Họ duyên dáng và ngọt ngào trong giọng hát Hà Nhì, không chỉ qua giọng hát, họ còn thể hiện sự hiếu khách đến kỳ lạ.

Ông Cha Cừ Xè, một cao niên bản A Pa Chải bảo: "Cái tết Hồ Sự Chà là phải thật vui, bản làng ăn uống nhảy múa suốt đêm ngày. Càng hát nhiều, vui nhiều thì năm mới có nhiều niềm vui, may mắn".

Quả thật, ở ngã ba biên giới, đêm hội Hồ Sự Chà là đêm vui nhất trong 365 ngày. Họ quan niệm, đó là thời điểm thượng đế xuống kiểm tra công việc mà con người đã làm trong năm vừa qua. Cho nên, dù ai đi ngược về xuôi, ở bản làng nào thì phải về quê hương bản quán sắm sửa lễ tết cho chu đáo.

Các món tết truyền thống của người Hà Nhì mỗi nơi mỗi khác, ở ngã ba biên giới, món không thể thiếu là thịt lợn xiên và bánh dày. Thịt lợn thể hiện cho lộc trời, bánh dày thể hiện cho phúc đức tổ tiên. Mâm cỗ tết dù nhiều món thế nào cũng không quan trọng, nhưng thịt lợn xiên và bánh dày phải là món chủ đạo để cúng thần.

< Bộ đội biên phòng vui tết cùng người Hà Nhì.

Ở ngã ba biên giới, không chỉ có đêm tết Hồ Sự Chà mới nhảy hát thâu đêm. 3 ngày tiếp theo cũng được tổ chức linh đình để dân bản sang nhà nhau chúc tết. Đó cũng là dịp để con cháu và bạn bè gặp gỡ chúc tụng nhau sau một năm xa cách. Cột mốc số 0 trong những ngày này thật đông đúc, ngã ba biên giới vang lên tiếng chiêng tiếng trống suốt đêm ngày chào mừng ngày tết Hồ Sự Chà.

"Tết của người Hà Nhì không thống nhất về thời gian nhưng lại giống nhau ở cách chọn ngày. Ngày đầu của tết phải là ngày rồng, tháng chuột theo lịch tính riêng của người Hà Nhì. Chúng tôi rất tự hào khi người Hà Nhì luôn giữ được bản sắc dân tộc mình để không bị hòa tan và mất đi".
Ông Sừng Sừng Khai (Chủ tịch UBND xã Leng Su Sìn).

Theo Kienthuc, internet

Từ Hà Nội, chúng tôi vượt gần 800 cây số mới đến được cột mốc số 0 ở xã Sín Thầu (Mường Nhé, Điện Biên). Ngã ba biên giới thường ngày lặng im như tờ, tịnh không một bóng người vậy mà trong tháng 12 này, không chỉ ở cột mốc số 0 mà nhiều bản làng Mường Nhé đông rợp người. Rượu tràn cung mây cùng những điệu xòe đón tết của người Hà Nhì.

Tết con rắn Hồ Sự Chà

Đến hẹn lại lên, cứ vào tháng 12 dương lịch hằng năm, người dân tộc Hà Nhì khắp Việt Nam lại vui tết cổ truyền của dân tộc mình. Tây Bắc mùa này hoa trạng nguyên nở rộ khắp các cung đường như món quà tạo hóa ban tặng cho dân bản đón tết.

< Người Hà Nhì làm bánh dày đón tết.

Tết Hà Nhì bao giờ cũng theo lịch dương, không có ngày cố định nhưng lịch được chọn theo ngày giờ đẹp. Tức là ngày rồng, tháng chuột, giờ dê để các trưởng bản già làng và người dân tổ chức đón tết. Tết Hà Nhì còn được gọi với một cái tên mỹ miều và cũng đặc trưng là Hồ Sự Chà.

Người Hà Nhì từ già tới trẻ không ai giải thích được từ Hồ Sự Chà có ý nghĩa cụ thể là gì. Chỉ biết từ đó có nghĩa là tết cổ truyền mà tổ tiên truyền lại. Họ bảo, người Hà Nhì không có con chữ riêng, chỉ có ngôn ngữ nên không biết rõ Hồ Sự Chà là gì.

Nhưng có một điểm giống với người Kinh là họ có lịch 12 con Giáp. Năm trước là tết con rồng thì năm nay là tết con rắn, rồng rắn lên mây nên cách tổ chức cũng gần giống nhau. Tuy rằng, tết Hồ Sự Chà mỗi nơi mỗi khác nhưng tựu chung lại ở một điều, tết không chỉ là thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới mà còn là ngày hội để dân bản tụ họp ăn uống và chúc nhau những lời chúc sức khoẻ, may mắn, thuận lợi và cầu cho đồng ruộng được tốt tươi, ngô sắn đầy nương, con cháu đầy nhà.

Ở Mường Nhé chỉ có 4 xã là có người Hà Nhì. Chúng tôi dọc theo các xã để vui tết, đến đâu cũng thấy rượu và những điệu xòe đẹp đến mê hồn của những thiếu nữ sơn cước có phần kiêu sa trong bộ đồ sặc sỡ sắc màu của dân tộc mình.

Đêm thứ nhất tại xã Leng Su Sìn, một xã giáp ngã ba biên giới chỉ khoảng 20 cây số. Dân cư nơi đây không phải quá đông nhưng cũng không ít. Đêm vui tết, tất cả bản làng quần tụ nhau lại, họ ăn uống hát hò bằng ngôn ngữ riêng của người Hà Nhì.

Ở Sín Thầu vui hơn vì gần như 100% dân cư nơi đây là người Hà Nhì. Họ sống trên những thung lũng rộng lớn ở biên giới. Phía bên kia là Trung Quốc và Lào, bên này là Sín Thầu "đỏ lửa". Sở dĩ, người ta gọi là Sín Thầu "đỏ lửa" vì người bản địa còn giữ được truyền đốt lửa suốt đêm ngày để vui tết Hồ Sự Chà.

"Kha pi pô"

< Trang điểm đón tết.

Những em nhỏ tung tăng trong bộ đồ mới theo chân bố mẹ đi chúc tết. Những sơn nữ đẹp như tranh vẽ thướt tha trên cung đường núi đá như điểm xuyết thêm sắc màu rực rỡ cho vùng mốc số 0. Những cụ già còng lưng chống gậy nhưng tay mang theo chai rượu ngô thơm nức, gặp ai cũng uống, gặp ai cũng chúc "kha pi pô" cách nồng nhiệt.

"Kha pi pô" nghĩa là gì? Giản đơn thôi, đó là chúc sức khoẻ. Người Hà Nhì thường chúc sức khoẻ nhau trong năm mới, nếu nói đủ nghĩa thì phải là "Hồ Sự Chà kha pi pô", nghĩa là chúc mừng năm mới. Cụ già gặp em nhỏ vẫn cúi đầu xin chúc "kha pi pô", nam thanh nữ tú gặp nhau mời uống bát rượu và chúc "kha pi pô", người bản làng gặp khách lạ cũng rót rượu mời uống và chúc "kha pi pô".

Đến cột mốc số 0, người lạ sẽ không còn cảm giác lạ lẫm, cũng không có cảm giác mình là khách. Bởi giản đơn, với người Hà Nhì, tất cả là một, là anh em bản làng. Tết là dịp để đoàn tụ, để uống rượu hỏi thăm và chúc nhau sức khoẻ.

Bất kể bạn là nam hay nữ, lớn hay nhỏ đều phải uống rượu. Khi người đối diện đã rót ra bát, bạn phải uống cạn và đáp lời "kha pi pô". Không khí lạnh vùng biên giới càng như lạnh hơn vào ngày Hồ Sự Chà để bản làng uống thêm bát rượu, ăn thêm phần xôi nếp nương.

Bản ta hát thâu đêm

Giữa ngã ba biên giới hoang lạnh, đêm vui tết Hà Nhì bừng sáng, cả một vệt dài biên giới chói ánh lửa hồng. Tiếng hát vang khắp bản này sang bản khác. Tiếng nhạc, tiếng trống chiêng vang vui phơi phới. Sau khi uống rượu bữa tối, người Hà Nhì tập trung nhau lại để giao lưu văn nghệ. Những bài hát trữ tình của người Hà Nhì vang lên hợp cùng điệu xòe sơn nữ khiến bất kỳ ai cũng phải rung động.

Tôi gặp cô gái Sừng Thị Pi, sơn nữ đẹp nhất bản A Pa Chải của Sín Thầu. Bộ đồ sặc sỡ càng thêm dáng kiêu kỳ với má hồng ánh lửa. Họ duyên dáng và ngọt ngào trong giọng hát Hà Nhì, không chỉ qua giọng hát, họ còn thể hiện sự hiếu khách đến kỳ lạ.

Ông Cha Cừ Xè, một cao niên bản A Pa Chải bảo: "Cái tết Hồ Sự Chà là phải thật vui, bản làng ăn uống nhảy múa suốt đêm ngày. Càng hát nhiều, vui nhiều thì năm mới có nhiều niềm vui, may mắn".

Quả thật, ở ngã ba biên giới, đêm hội Hồ Sự Chà là đêm vui nhất trong 365 ngày. Họ quan niệm, đó là thời điểm thượng đế xuống kiểm tra công việc mà con người đã làm trong năm vừa qua. Cho nên, dù ai đi ngược về xuôi, ở bản làng nào thì phải về quê hương bản quán sắm sửa lễ tết cho chu đáo.

Các món tết truyền thống của người Hà Nhì mỗi nơi mỗi khác, ở ngã ba biên giới, món không thể thiếu là thịt lợn xiên và bánh dày. Thịt lợn thể hiện cho lộc trời, bánh dày thể hiện cho phúc đức tổ tiên. Mâm cỗ tết dù nhiều món thế nào cũng không quan trọng, nhưng thịt lợn xiên và bánh dày phải là món chủ đạo để cúng thần.

< Bộ đội biên phòng vui tết cùng người Hà Nhì.

Ở ngã ba biên giới, không chỉ có đêm tết Hồ Sự Chà mới nhảy hát thâu đêm. 3 ngày tiếp theo cũng được tổ chức linh đình để dân bản sang nhà nhau chúc tết. Đó cũng là dịp để con cháu và bạn bè gặp gỡ chúc tụng nhau sau một năm xa cách. Cột mốc số 0 trong những ngày này thật đông đúc, ngã ba biên giới vang lên tiếng chiêng tiếng trống suốt đêm ngày chào mừng ngày tết Hồ Sự Chà.

"Tết của người Hà Nhì không thống nhất về thời gian nhưng lại giống nhau ở cách chọn ngày. Ngày đầu của tết phải là ngày rồng, tháng chuột theo lịch tính riêng của người Hà Nhì. Chúng tôi rất tự hào khi người Hà Nhì luôn giữ được bản sắc dân tộc mình để không bị hòa tan và mất đi".
Ông Sừng Sừng Khai (Chủ tịch UBND xã Leng Su Sìn).

Theo Kienthuc, internet