Hiển thị các bài đăng có nhãn Suối - thác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Suối - thác. Hiển thị tất cả bài đăng
Khe Lim thuộc địa phận xã Đại Hồng (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam), cách trung tâm huyện 23 km, cách thành phố Đà Nẵng 45 km về phía Tây Nam, cách Hội An 46 km về phía Tây. Khe Lim đẹp bởi nhiều thác nước ẩn hiện trong rừng nguyên sinh cùng hệ động, thực vật phong phú, tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình, là một trong những điểm du lịch hấp dẫn của vùng trung du Đại Lộc và Quảng Nam.

Đi trên cầu Hà Nha, nằm trên QL14B, du khách đã thấy trên vách núi những dòng thác bạc tuôn nước trắng xóa ẩn hiện trong màu lam sương khói của núi Am Thông nằm trên đỉnh Hio-Hiu, đẹp như bức tranh thủy mạc. Từ xa, có thể thấy những ngọn thác đổ xuống bảy tầng gần trăm mét.

< Đường vào Khe Lim.

Con đường vào Khe Lim đã đổ bê tông rộng 4 mét, dài một km, xe máy dễ dàng đến khu vực chân thác. Đây là vùng đất hoang vu với rừng nguyên sinh mênh mông, khí hậu trong lành mát mẻ, tiếng suối reo hòa cùng tiếng chim rừng hót líu lo.

Trước mắt chúng tôi là điểm hợp lưu của hai dòng suối lớn, có đoạn nước trong xanh, yên tĩnh; có đoạn nước xô vào đá, tung bọt trắng xoá. Hai bên bờ suối là cánh rừng đại ngàn, cây cối um tùm, nhiều nơi không nhìn thấy ánh mặt trời. Bạn có thể ngâm mình, thư giãn trong làn nước mát lạnh chảy ra từ các mạch đá ngầm dưới bóng cây rừng.

Càng lên cao, hai bên bờ xuất hiện những ghềnh đá màu vàng, xanh với những hình thù kỳ bí, có tảng đá lớn cỡ ngôi nhà, bề mặt phẳng và rộng, chung quanh nước chảy rì rào, đủ cho hàng chục người vui chơi, nghỉ ngơi. Đặc biệt, có thớt đá “thạch ngư” đang “há miệng” đùa với nước. Nhìn lên lưng chừng núi, du khách mục kích nhiều con thác tung bụi nước lên những tán cây, tạo nên chiếc cầu vồng đa sắc lung linh huyền ảo. Ban hít thở thật sâu, tận hưởng không khí trong lành của rừng mà cảm thấy thư thái, bao mệt mỏi, lo toan dường như cũng tan biến theo bọt nước trắng xoá.

< “Thạch Ngư” ở khe Lim có hình dáng ngộ nghĩnh.

Các bô lão quanh vùng cho hay, thác Khe Lim bắt nguồn từ núi Am Thông, nằm trên đỉnh Hio-Hiu có độ cao trên 880m so với mặt biển, có dòng nước cao ngất đổ xuống tạo thành nhiều tầng, bậc. Sở dĩ có tên gọi Khe Lim vì khu vực này có nhiều cây lim (thiết mộc), một lọai gỗ quý của núi rừng miền Trung. Ngoài ra, Khe Lim còn là nơi “dự báo thời tiết”: Nếu trời đang nắng mà nghe tiếng ồ ồ rì rầm từ Khe Lim, chắc chắn ngày hôm sau có mưa và ngược lại trời đang mưa nghe tiếng rầm rì ồ ồ từ Khe Lim thì ngày hôm sau trời nắng. Hiện nay, trên đỉnh thác ở Khe Lim vẫn còn dấu tích Chùa Am với những giai thoại dân gian huyền bí của ẩn sĩ “Tùng Sơn” hơn 100 năm trước.

Khe Lim được ví như nàng sơn nữ giữa rừng sâu, ít người biết đến. Ai đã một lần đến đây, đều mong có ngày trở lại nơi chốn có vẻ đẹp hoang sơ, tĩnh mịch này. Ngoài ra, hành trình chinh phục đỉnh Hio-Hiu khá gian nan, vất vả…lại là yếu tố lôi cuốn, hấp dẫn những du khách đam mê chinh phục, tìm tòi và khám phá thiên nhiên.

Hướng dẫn thêm:

< Cây lá ở Khe Lim.

Từ cầu Vượt Hòa Cầm (P. Hòa Thọ Đông, Q. Cẩm Lệ), du khách theo QL14B lên làng cổ Túy Loan (khoảng 7Km, thuộc xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang), đi tiếp lên cầu Hà Nha (khoảng 30 Km, thuộc Đại Lộc - Quảng Nam).

Qua cầu tiếp tục đi thêm khoảng 8km nữa là đến Khe Lim, nằm bên tay trái QL14B. Khi về, nếu còn sớm, bạn nên ghé tham quan làng cổ Túy Loan có 500 năm tuổi và đừng quên thưởng thức món mì Quảng nổi tiếng có hương vị đặc trưng.

Korean Air! - Theo Hòa Vang (PNO)

Khe Lim thuộc địa phận xã Đại Hồng (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam), cách trung tâm huyện 23 km, cách thành phố Đà Nẵng 45 km về phía Tây Nam, cách Hội An 46 km về phía Tây. Khe Lim đẹp bởi nhiều thác nước ẩn hiện trong rừng nguyên sinh cùng hệ động, thực vật phong phú, tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình, là một trong những điểm du lịch hấp dẫn của vùng trung du Đại Lộc và Quảng Nam.

Đi trên cầu Hà Nha, nằm trên QL14B, du khách đã thấy trên vách núi những dòng thác bạc tuôn nước trắng xóa ẩn hiện trong màu lam sương khói của núi Am Thông nằm trên đỉnh Hio-Hiu, đẹp như bức tranh thủy mạc. Từ xa, có thể thấy những ngọn thác đổ xuống bảy tầng gần trăm mét.

< Đường vào Khe Lim.

Con đường vào Khe Lim đã đổ bê tông rộng 4 mét, dài một km, xe máy dễ dàng đến khu vực chân thác. Đây là vùng đất hoang vu với rừng nguyên sinh mênh mông, khí hậu trong lành mát mẻ, tiếng suối reo hòa cùng tiếng chim rừng hót líu lo.

Trước mắt chúng tôi là điểm hợp lưu của hai dòng suối lớn, có đoạn nước trong xanh, yên tĩnh; có đoạn nước xô vào đá, tung bọt trắng xoá. Hai bên bờ suối là cánh rừng đại ngàn, cây cối um tùm, nhiều nơi không nhìn thấy ánh mặt trời. Bạn có thể ngâm mình, thư giãn trong làn nước mát lạnh chảy ra từ các mạch đá ngầm dưới bóng cây rừng.

Càng lên cao, hai bên bờ xuất hiện những ghềnh đá màu vàng, xanh với những hình thù kỳ bí, có tảng đá lớn cỡ ngôi nhà, bề mặt phẳng và rộng, chung quanh nước chảy rì rào, đủ cho hàng chục người vui chơi, nghỉ ngơi. Đặc biệt, có thớt đá “thạch ngư” đang “há miệng” đùa với nước. Nhìn lên lưng chừng núi, du khách mục kích nhiều con thác tung bụi nước lên những tán cây, tạo nên chiếc cầu vồng đa sắc lung linh huyền ảo. Ban hít thở thật sâu, tận hưởng không khí trong lành của rừng mà cảm thấy thư thái, bao mệt mỏi, lo toan dường như cũng tan biến theo bọt nước trắng xoá.

< “Thạch Ngư” ở khe Lim có hình dáng ngộ nghĩnh.

Các bô lão quanh vùng cho hay, thác Khe Lim bắt nguồn từ núi Am Thông, nằm trên đỉnh Hio-Hiu có độ cao trên 880m so với mặt biển, có dòng nước cao ngất đổ xuống tạo thành nhiều tầng, bậc. Sở dĩ có tên gọi Khe Lim vì khu vực này có nhiều cây lim (thiết mộc), một lọai gỗ quý của núi rừng miền Trung. Ngoài ra, Khe Lim còn là nơi “dự báo thời tiết”: Nếu trời đang nắng mà nghe tiếng ồ ồ rì rầm từ Khe Lim, chắc chắn ngày hôm sau có mưa và ngược lại trời đang mưa nghe tiếng rầm rì ồ ồ từ Khe Lim thì ngày hôm sau trời nắng. Hiện nay, trên đỉnh thác ở Khe Lim vẫn còn dấu tích Chùa Am với những giai thoại dân gian huyền bí của ẩn sĩ “Tùng Sơn” hơn 100 năm trước.

Khe Lim được ví như nàng sơn nữ giữa rừng sâu, ít người biết đến. Ai đã một lần đến đây, đều mong có ngày trở lại nơi chốn có vẻ đẹp hoang sơ, tĩnh mịch này. Ngoài ra, hành trình chinh phục đỉnh Hio-Hiu khá gian nan, vất vả…lại là yếu tố lôi cuốn, hấp dẫn những du khách đam mê chinh phục, tìm tòi và khám phá thiên nhiên.

Hướng dẫn thêm:

< Cây lá ở Khe Lim.

Từ cầu Vượt Hòa Cầm (P. Hòa Thọ Đông, Q. Cẩm Lệ), du khách theo QL14B lên làng cổ Túy Loan (khoảng 7Km, thuộc xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang), đi tiếp lên cầu Hà Nha (khoảng 30 Km, thuộc Đại Lộc - Quảng Nam).

Qua cầu tiếp tục đi thêm khoảng 8km nữa là đến Khe Lim, nằm bên tay trái QL14B. Khi về, nếu còn sớm, bạn nên ghé tham quan làng cổ Túy Loan có 500 năm tuổi và đừng quên thưởng thức món mì Quảng nổi tiếng có hương vị đặc trưng.

Korean Air! - Theo Hòa Vang (PNO)

Nằm cách Tp. Phan Rang - Tháp Chàm khoảng 40 km về hướng Tây- Bắc, rừng núi quanh suối Lạnh còn giữ được nét nguyên sinh, quanh năm rợp bóng cây xanh.

< Suối Lạnh, cũng có tên là suối Sừng Trâu (Ninh Thuận).

Nước suối trong vắt len lỏi chảy róc rách qua những gềnh đá tạo thành âm thanh thiên nhiên hoang dã, trữ tình. Suối Lạnh còn gọi là suối Sừng Trâu (người Raglai gọi là Cro Saraoai) thuộc xã vùng cao Phước Chiến (huyện Thuận Bắc) đang trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn thu hút du khách gần xa.

< Rừng núi quanh suối Lạnh còn giữ được nét nguyên sinh, quanh năm rợp bóng cây xanh.

Đến với suối Lạnh vào những ngày đầu năm mới 2013, chúng tôi được sống trong không gian xanh biếc yên lành. Con người như nhận được sự che chở bảo bọc của rừng cây đại ngàn trùm bóng mát rượi xuống dòng suối. Những tảng đá bằng phẳng như những chiếc tràng kỷ được tạo hoá sắp đặt cho con người đến nghỉ ngơi sau những ngày lao động vất vả. Nước suối trong vắt mát lạnh phát nguyên từ dãi núi Xanh. Nước suối chảy không bao giờ cạn là mạch nguồn chính làm nên công trình thuỷ lợi hồ Sông Trâu hùng vĩ tưới cho hàng ngàn hecta đất canh tác phía hạ nguồn.

Tuy chưa có chương trình quảng bá giới thiệu của các ngành hữu quan nhưng nét đẹp hoang sơ của suối Lạnh đã mời gọi du khách gần xa tìm đến thăm thú, vui chơi. Du khách từ thành phố Hồ Chí Minh ra, từ Nha Trang vào, từ Phan Rang lên gặp gỡ giao lưu thưởng ngoạn nét đẹp thiên nhiên của vùng non nước Phước Chiến.

Nếu du khách khởi hành từ thành phố Phan Rang- Tháp Chàm sau khoảng 90 phút chạy xe máy là đến thôn Tập Lá. Đường lên xã vùng cao Phước Chiến được Nhà nước đầu tư xây dựng kiên cố nên việc đi lại rất thuận lợi. Gởi xe cho người dân địa phương trông coi, du khách cuốc bộ khoảng 1 km là đến điểm du lịch suối Lạnh. Dọc đường đi bộ vừa thư giản vừa nghe tiếng chim rừng vui hót trong những tán lá xanh mướt nắng miền cao ban mai.


< Nước suối Lạnh là mạch nguồn chính của hồ Sông Trâu có sức chứa trên 31 triệu mét khối nước phục vụ tưới 3.000 ha đất sản xuất nông nghiệp huyện Thuận Bắc.

Về Phước Chiến thưởng ngoạn thiên nhiên suối Lạnh, hòa mình trong đời sống văn hóa đặc sắc của đồng bào Raglai. Du khách được “tận mục sở thị” các nghệ nhân dân gian biểu diễn mả la hòa quyện cùng tiếng đàn chapi tạo nên âm thanh độc đáo của cư dân bản địa. Được thưởng thức hương vị rượu cần ngọt ngào ấm áp với cung cách mời rượu ân cần tỏ lòng mến khách của thiếu nữ địa phương…

Anh Nguyễn Nam, Phó chủ tịch UBND xã Phước Chiến cho biết vào những dịp lễ tết, mỗi ngày có 300- 500 du khách đến nghỉ ngơi vui chơi tại suối Lạnh. Phía thượng nguồn suối còn có những thác nước hấp dẫn dành cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên. Nếu được ngành Du lịch mời gọi các nhà đầu tư mở đường từ thôn Tập Lá đến suối Lạnh sẽ tạo nên không gian du lịch sinh thái hấp dẫn du khách gần xa.

Korean Air! - Theo Báo Ninh Thuận, internet

Nằm cách Tp. Phan Rang - Tháp Chàm khoảng 40 km về hướng Tây- Bắc, rừng núi quanh suối Lạnh còn giữ được nét nguyên sinh, quanh năm rợp bóng cây xanh.

< Suối Lạnh, cũng có tên là suối Sừng Trâu (Ninh Thuận).

Nước suối trong vắt len lỏi chảy róc rách qua những gềnh đá tạo thành âm thanh thiên nhiên hoang dã, trữ tình. Suối Lạnh còn gọi là suối Sừng Trâu (người Raglai gọi là Cro Saraoai) thuộc xã vùng cao Phước Chiến (huyện Thuận Bắc) đang trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn thu hút du khách gần xa.

< Rừng núi quanh suối Lạnh còn giữ được nét nguyên sinh, quanh năm rợp bóng cây xanh.

Đến với suối Lạnh vào những ngày đầu năm mới 2013, chúng tôi được sống trong không gian xanh biếc yên lành. Con người như nhận được sự che chở bảo bọc của rừng cây đại ngàn trùm bóng mát rượi xuống dòng suối. Những tảng đá bằng phẳng như những chiếc tràng kỷ được tạo hoá sắp đặt cho con người đến nghỉ ngơi sau những ngày lao động vất vả. Nước suối trong vắt mát lạnh phát nguyên từ dãi núi Xanh. Nước suối chảy không bao giờ cạn là mạch nguồn chính làm nên công trình thuỷ lợi hồ Sông Trâu hùng vĩ tưới cho hàng ngàn hecta đất canh tác phía hạ nguồn.

Tuy chưa có chương trình quảng bá giới thiệu của các ngành hữu quan nhưng nét đẹp hoang sơ của suối Lạnh đã mời gọi du khách gần xa tìm đến thăm thú, vui chơi. Du khách từ thành phố Hồ Chí Minh ra, từ Nha Trang vào, từ Phan Rang lên gặp gỡ giao lưu thưởng ngoạn nét đẹp thiên nhiên của vùng non nước Phước Chiến.

Nếu du khách khởi hành từ thành phố Phan Rang- Tháp Chàm sau khoảng 90 phút chạy xe máy là đến thôn Tập Lá. Đường lên xã vùng cao Phước Chiến được Nhà nước đầu tư xây dựng kiên cố nên việc đi lại rất thuận lợi. Gởi xe cho người dân địa phương trông coi, du khách cuốc bộ khoảng 1 km là đến điểm du lịch suối Lạnh. Dọc đường đi bộ vừa thư giản vừa nghe tiếng chim rừng vui hót trong những tán lá xanh mướt nắng miền cao ban mai.


< Nước suối Lạnh là mạch nguồn chính của hồ Sông Trâu có sức chứa trên 31 triệu mét khối nước phục vụ tưới 3.000 ha đất sản xuất nông nghiệp huyện Thuận Bắc.

Về Phước Chiến thưởng ngoạn thiên nhiên suối Lạnh, hòa mình trong đời sống văn hóa đặc sắc của đồng bào Raglai. Du khách được “tận mục sở thị” các nghệ nhân dân gian biểu diễn mả la hòa quyện cùng tiếng đàn chapi tạo nên âm thanh độc đáo của cư dân bản địa. Được thưởng thức hương vị rượu cần ngọt ngào ấm áp với cung cách mời rượu ân cần tỏ lòng mến khách của thiếu nữ địa phương…

Anh Nguyễn Nam, Phó chủ tịch UBND xã Phước Chiến cho biết vào những dịp lễ tết, mỗi ngày có 300- 500 du khách đến nghỉ ngơi vui chơi tại suối Lạnh. Phía thượng nguồn suối còn có những thác nước hấp dẫn dành cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên. Nếu được ngành Du lịch mời gọi các nhà đầu tư mở đường từ thôn Tập Lá đến suối Lạnh sẽ tạo nên không gian du lịch sinh thái hấp dẫn du khách gần xa.

Korean Air! - Theo Báo Ninh Thuận, internet

Ngay trên tuyến đường 20 huyền thoại chúng ta sẽ bắt gặp bao nhiêu điều kỳ thú mà thác Gió, rừng Gáo chỉ là những nét dạo đầu của thiên nhiên trong rừng Phong Nha - Kẻ Bàng...

Theo đường 20 đến km8, rẽ phải men theo rừng độ vai chục mét là thác Gió hiện ra. Một nhánh suối chảy từ rào Thương len lỏi qua những khu rừng nguyên sinh, xuyên qua những phiến đá đã tạo nên một con thác nhỏ, có cao độ chừng 30 mét, nước trong xanh, tung bọt trắng xóa trên những phiến đá phẳng lỳ.

Thác Gió, khúc nhạc của rừng

Thác Gió nằm ở Vị trí km 8+500m của đường 20 - Quyết thắng, đoạn đường vượt dốc Đồng Tiền. Trong chuyến đi tuần tra rừng ông Nguyễn Tấn Hiệp nguyên  giám đốc Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã đặt cho nó cái tên "Thác Gió " bởi lẽ ai đến đây cũng đều được tận hưởng những cơn gió mát lộng quanh năm, nhất là về mùa hè du khách  sẽ được tận hưởng một bầu không khí trong lành, mát lạnh được điều hoà bởi thác nước, cây rừng.

Trước những năm 1975, đây là một trong những trọng điểm bắn phá ác liệt của quân Mỹ nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam - chính vì vậy trong chiến tranh khu rừng nơi đây bị tàn phá rất nghiêm trọng. Khi hoà bình lập lại, rừng mới được hồi sinh nên cây rừng ở đây hiện nay chủ yếu là thảm thực vật trên núi đá và một số núi đất.

Vì thế tài nguyên rừng chủ yếu là các cây gổ có đường  kính từ 30cm đến 40cm  có giá trị về kinh tế và góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ nước đầu nguồn cho hang động Phong Nha.

Tuy bị tàn phá nặng nề nhưng hai bên suối vẫn còn sót lại một số cây lớn, đặc biệt ở cuối dòng suối có Cây Gùa rất lớn tên khoa học Fiars Callora thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), có đường kính khoảng 10 người ôm . Đây là một loài cây có tuổi thọ gần 1000 tuổi đang mang trên mình những chứng tích của thời bom đạn, ngoài ra ở nơi đây còn có nhiều loài động vật quí hiếm như: Khỉ, Vượn,  Hổ, Mang, Nhím, Sóc, Công, Gà rừng, Lợn rừng...

Có lẽ thác Gió không hùng vĩ như những con thác ta đã từng bắt gặp đâu đó trên những nẻo đường đất nước. Nhưng, thác Gió sẽ cho du khách tận hưởng sự trong lành đến tinh khiết của thiên nhiên, bởi sự mát mẻ đến kỳ lạ thấm sâu vào da thịt. Tiếng thác như bản hòa ca của núi rừng, không ồn ào, gầm thét chỉ dìu dặt, âm âm, trầm trầm, dìu dịu. Du khách sẽ thả hồn vào thiên nhiên, ngả mình trên những phiến đá khổng lồ ngắm nhìn khoảng không gian biếc xanh qua những tán lá...

Đến với Thác gió - Vườn thực vật du khách có thể quan sát được dãy núi đá vôi dựng đứng cao vút trời, Khu Linh trưởng bán hoang dã Núi Đôi và những mảng màu xanh  của trên 500 loài thực vật rừng quý hiếm đặc biệt là các loài Phong Lan độc đáo của rừng Kẻ Bàng được sưu tập và giới thiệu tại đây,

Những dòng nước suối trong xanh mát lạnh làm cho du khách quên đi những nổi ưu phiền trong những chuỗi ngày mãi mê căng thẳng với công việc, để có được một ngày thoải mái, mát mẽ và dễ chịu.

Nơi đây còn là nơi  lý tưởng cho nhà nghiên cứu, sinh viên các ngành Sinh học, Lâm nghiệp, Nông nghiệp, Du lịch… đến tìm hiểu và thăm quan học tập.

Rừng Gáo, nét vẽ phóng túng của thiên nhiên

Rời thác Gió cũng theo đường 20 vượt qua những đoạn đường quanh co uốn lượn bạn sẽ thấy núi non Phong Nha - Kẻ Bàng thật hùng vĩ. Đến km 13, bên phải đường là vách đá dựng đứng, còn phía bên kia bạn sẽ thấy một rừng cây lạ mắt.

Những thân cây màu trắng bạc, đường kính chừng 30-40 cm thẳng vút lên trời xanh, san sát nhau. Đấy là rừng Gáo. Với diện tích chừng 50-60 ha, chỉ độc có thứ cây khá đặc biệt này, tán lá cùng với thân cây thẳng tắp ít cành, như những chiếc dù khổng lồ, tạo nên một vùng râm mát mà thoáng đãng...

Chảy qua rừng Gáo là một dòng suối trong xanh. Suối này bắt nguồn từ rào Thương, Hang én giữa rừng Phong Nha - Kẻ Bàng và chảy vào động Phong Nha.

Trong năm, chỉ một thời gian ngắn của mùa lũ là dòng nước đổi màu còn lại gần như quanh năm, nước trong xanh. Trong dòng nước biếc xanh là những đàn cá lội tung tăng với những loài cá đặc hữu của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng...

Rời rừng Gáo, theo đường 20 bạn sẽ gặp cầu Trạ Ang hoành tráng trên đường Hồ Chí Minh và tiếp đó là địa danh đã đi vào lịch sử chống Mỹ bi hùng của dân tộc, hang 8 liệt sĩ thanh niên xung phong...

Vé máy bay đi los angeles! - Tổng hợp từ báo Quảng Bình và nhiều nguồn khác.

Ngay trên tuyến đường 20 huyền thoại chúng ta sẽ bắt gặp bao nhiêu điều kỳ thú mà thác Gió, rừng Gáo chỉ là những nét dạo đầu của thiên nhiên trong rừng Phong Nha - Kẻ Bàng...

Theo đường 20 đến km8, rẽ phải men theo rừng độ vai chục mét là thác Gió hiện ra. Một nhánh suối chảy từ rào Thương len lỏi qua những khu rừng nguyên sinh, xuyên qua những phiến đá đã tạo nên một con thác nhỏ, có cao độ chừng 30 mét, nước trong xanh, tung bọt trắng xóa trên những phiến đá phẳng lỳ.

Thác Gió, khúc nhạc của rừng

Thác Gió nằm ở Vị trí km 8+500m của đường 20 - Quyết thắng, đoạn đường vượt dốc Đồng Tiền. Trong chuyến đi tuần tra rừng ông Nguyễn Tấn Hiệp nguyên  giám đốc Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã đặt cho nó cái tên "Thác Gió " bởi lẽ ai đến đây cũng đều được tận hưởng những cơn gió mát lộng quanh năm, nhất là về mùa hè du khách  sẽ được tận hưởng một bầu không khí trong lành, mát lạnh được điều hoà bởi thác nước, cây rừng.

Trước những năm 1975, đây là một trong những trọng điểm bắn phá ác liệt của quân Mỹ nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam - chính vì vậy trong chiến tranh khu rừng nơi đây bị tàn phá rất nghiêm trọng. Khi hoà bình lập lại, rừng mới được hồi sinh nên cây rừng ở đây hiện nay chủ yếu là thảm thực vật trên núi đá và một số núi đất.

Vì thế tài nguyên rừng chủ yếu là các cây gổ có đường  kính từ 30cm đến 40cm  có giá trị về kinh tế và góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ nước đầu nguồn cho hang động Phong Nha.

Tuy bị tàn phá nặng nề nhưng hai bên suối vẫn còn sót lại một số cây lớn, đặc biệt ở cuối dòng suối có Cây Gùa rất lớn tên khoa học Fiars Callora thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), có đường kính khoảng 10 người ôm . Đây là một loài cây có tuổi thọ gần 1000 tuổi đang mang trên mình những chứng tích của thời bom đạn, ngoài ra ở nơi đây còn có nhiều loài động vật quí hiếm như: Khỉ, Vượn,  Hổ, Mang, Nhím, Sóc, Công, Gà rừng, Lợn rừng...

Có lẽ thác Gió không hùng vĩ như những con thác ta đã từng bắt gặp đâu đó trên những nẻo đường đất nước. Nhưng, thác Gió sẽ cho du khách tận hưởng sự trong lành đến tinh khiết của thiên nhiên, bởi sự mát mẻ đến kỳ lạ thấm sâu vào da thịt. Tiếng thác như bản hòa ca của núi rừng, không ồn ào, gầm thét chỉ dìu dặt, âm âm, trầm trầm, dìu dịu. Du khách sẽ thả hồn vào thiên nhiên, ngả mình trên những phiến đá khổng lồ ngắm nhìn khoảng không gian biếc xanh qua những tán lá...

Đến với Thác gió - Vườn thực vật du khách có thể quan sát được dãy núi đá vôi dựng đứng cao vút trời, Khu Linh trưởng bán hoang dã Núi Đôi và những mảng màu xanh  của trên 500 loài thực vật rừng quý hiếm đặc biệt là các loài Phong Lan độc đáo của rừng Kẻ Bàng được sưu tập và giới thiệu tại đây,

Những dòng nước suối trong xanh mát lạnh làm cho du khách quên đi những nổi ưu phiền trong những chuỗi ngày mãi mê căng thẳng với công việc, để có được một ngày thoải mái, mát mẽ và dễ chịu.

Nơi đây còn là nơi  lý tưởng cho nhà nghiên cứu, sinh viên các ngành Sinh học, Lâm nghiệp, Nông nghiệp, Du lịch… đến tìm hiểu và thăm quan học tập.

Rừng Gáo, nét vẽ phóng túng của thiên nhiên

Rời thác Gió cũng theo đường 20 vượt qua những đoạn đường quanh co uốn lượn bạn sẽ thấy núi non Phong Nha - Kẻ Bàng thật hùng vĩ. Đến km 13, bên phải đường là vách đá dựng đứng, còn phía bên kia bạn sẽ thấy một rừng cây lạ mắt.

Những thân cây màu trắng bạc, đường kính chừng 30-40 cm thẳng vút lên trời xanh, san sát nhau. Đấy là rừng Gáo. Với diện tích chừng 50-60 ha, chỉ độc có thứ cây khá đặc biệt này, tán lá cùng với thân cây thẳng tắp ít cành, như những chiếc dù khổng lồ, tạo nên một vùng râm mát mà thoáng đãng...

Chảy qua rừng Gáo là một dòng suối trong xanh. Suối này bắt nguồn từ rào Thương, Hang én giữa rừng Phong Nha - Kẻ Bàng và chảy vào động Phong Nha.

Trong năm, chỉ một thời gian ngắn của mùa lũ là dòng nước đổi màu còn lại gần như quanh năm, nước trong xanh. Trong dòng nước biếc xanh là những đàn cá lội tung tăng với những loài cá đặc hữu của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng...

Rời rừng Gáo, theo đường 20 bạn sẽ gặp cầu Trạ Ang hoành tráng trên đường Hồ Chí Minh và tiếp đó là địa danh đã đi vào lịch sử chống Mỹ bi hùng của dân tộc, hang 8 liệt sĩ thanh niên xung phong...

Vé máy bay đi los angeles! - Tổng hợp từ báo Quảng Bình và nhiều nguồn khác.

Lên tới xã Hà Lang (thuộc huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang) trời đã sẩm tối. Bí thư Đảng ủy xã Ma Văn Lâm nói: “Muốn lên được Thác Lụa phải qua rừng nguyên sinh Cốc Nghè, sáng sớm mai sẽ có người dẫn đường cho nhà báo, nhưng phải chuẩn bị tâm lý trước do đường lên Thác Lụa “bất khuất” lắm”. Tôi hiểu được ngụ ý về những khó khăn, vất vả ngày mai đã được dự báo trong hai từ “bất khuất” của anh.

Bữa cơm tối giữa cán bộ UBND xã Hà Lang và chúng tôi thật dân dã mà ân tình. Chủ quán người dân tộc Tày nâng chén rượu lên bảo: “Hôm nay nhà nấu mẻ rượu nếp nương mới, chén đầu tiên “kin sưởn” - uống hết nhé, từ chén sau thì “Kin cơ huơ cơ đáy” đấy” (nghĩa là: Uống được đến đâu thì uống).

Tất cả cùng nâng chén chúc cho nhau có một sức khỏe dồi dào, một đôi chân dẻo dai để mai lên với Cốc Nghè, Thác Lụa. Bí thư Đảng ủy xã nói: “Đã có người chuẩn bị cơm lam cho bữa trưa mai trên rừng rồi, yên tâm mà đi thôi”. Chẳng biết có phải vì hương thơm ngào ngạt của rượu nếp nương hay vì lòng mến khách của con người nơi đây khiến tôi thấy lâng lâng.

5 giờ sáng hôm sau, từ bản Hiệp mười người đoàn chúng tôi bắt đầu lên đường gồm Bí thư Đoàn xã, cán bộ Trạm Kiểm lâm xã Hà Lang và sáu người dân bản Hiệp. Đích đến cuối cùng là Thác Lụa, nhưng để đi đến được đó chúng tôi phải đi qua rừng nguyên sinh Cốc Nghè.

Chặng đường lên rừng nguyên sinh Cốc Nghè đi bộ chừng 10 km, qua bốn con suối lớn là: Hăm Vè, Nà Thước, Hiệp, Cốc Nghè. Mặt trời đã lên cao, càng vào gần đến rừng nguyên sinh Cốc Nghè càng mát lạnh.

Theo con đường mòn, vượt qua ba con dốc thẳng đứng, chúng tôi phải nhờ vào những đoạn cây làm gậy chống lấy đà đi tiếp. Qua khu rừng mỡ phải có đến hàng trăm cây gỗ to, cao vút. Đồng chí Lê Tiến Chi, cán bộ Trạm Kiểm lâm xã Hà Lang nói: “Qua rừng mỡ là đến rừng nguyên sinh Cốc Nghè rồi đấy”.

Cả đoàn rẽ trái để vào rừng nguyên sinh Cốc Nghè. Con đường mòn không còn. Lúc này cả đoàn mới thấy hết tài nghệ của “Nhà leo núi” Hoàng Seo Nhà, dân tộc Mông bản Hiệp. Đôi chân đã quen với đường rừng cứ thoăn thoắt đạp cỏ rừng, mở đường dẫn chúng tôi đi. Những chùm hoa lan tai trâu, lan đuôi chồn, lan me, lan kiến, lan hài đua nhau bám vào những cây gỗ cao, rủ hoa xuống. Những buồng chuối rừng chín vàng ruộm lơ lửng trên cao. Rau dớn ở đây mọc thành rừng, có chỗ ngọn vươn cao ngang đầu gối. Ở đây cũng có cả những cây kim tuyến, óng ánh muôn sắc màu mọc lên từ đất.

Người dân bản Hiệp trong đoàn cho biết, đây là loại cây chỉ mọc ở những nơi đất ẩm, có nhiều mùn và nếu ở khu rừng bình thường thì hầu như không thấy loại cây này.

Những bước chân của người đi sau cứ theo những bước chân của người đi trước mà bước. Tất cả dụng cụ cần dùng khi lên Thác Lụa đều được các chàng trai bản Hiệp đảm nhận mang theo. Chính họ là những người đi sau cùng giúp đoàn chúng tôi vượt gềnh suối, núi cao an toàn. Ở họ toát lên một sự phóng khoáng, mạnh mẽ, đôi chân trần phăm phăm bước trên những tảng đá nhọn hoắt dẫn chúng tôi đi.

Đi thêm chừng 2 km, phía trước mặt chúng tôi là vô số những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Cả đoàn dừng lại bên cây phay to mười người ôm không xuể.

“Từ nhiều đời nay, người dân bản Hiệp đã coi việc bảo vệ rừng như bảo vệ cuộc sống của mình rồi. Người dân bản Hiệp kiên trì bám rừng nên tình yêu với rừng lớn lắm” - anh Lưu Văn Vững, dân tộc Tày, bản Hiệp nói. Đôi chân nhanh như sóc của ông Nhà, anh Vững, chị Thảo cùng đi với chúng tôi có lẽ đã đi khắp những quả đồi, suối sâu ở đây, trong họ đều mang tình yêu với rừng xanh để những cây cổ thụ kia cứ vươn cao mãi, trở thành niềm tự hào của người dân nơi đây.

Đồng chí Lê Tiến Chi, cán bộ Trạm Kiểm lâm xã Hà Lang nói: Để làm được một ngôi nhà gỗ, người dân ở đây phải mất 4 đến 5 năm, có khi cả chục năm ròng mới làm xong. Nguyên liệu để làm nhà được người dân lấy từ các cây gỗ bị gió, bão quật ngã, bị đổ, gãy trôi theo các dòng suối. Bao nhiêu năm nay, làm nhiệm vụ ở địa bàn này anh chưa từng thấy người dân nào chặt cây rừng lấy gỗ cả. Vì thế, rừng nguyên sinh Cốc Nghè cứ sừng sững, hiên ngang trường tồn cùng năm tháng.

Qua đoạn có nhiều cây cổ thụ, ông Hoàng Seo Nhà chỉ cho chúng tôi xem phân khỉ thỉnh thoảng xuất hiện dọc các phiến đá. Ông liền lấy cán dao gõ ba tiếng vào thân cây báo hiệu. Sắp đến Thác Lụa.

Huyền thoại mở ra Thác Lụa

Chúng tôi tiếp tục lên cao hơn qua một lối nhỏ toàn đá, không ít lần chúng tôi phải đu vào các cành cây để leo lên. Thác Lụa!

Cả đoàn ngước mặt nhìn lên. Hình ảnh thật hiện ra mà ngỡ như đang trong mơ. Hàng triệu triệu hạt nước nhỏ li ti từ thác nước như sương phả vào mặt chúng tôi. Tất cả đều trầm trồ, thán phục trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của thác.

Tiếp nhận dòng nước của nhiều dòng suối nhỏ, vượt qua bao núi rừng, ghềnh thác, Thác Lụa băng băng, bất ngờ đổ thẳng xuống từ độ cao trên 70 mét để rồi giao hòa cùng với suối Khuổi Muồi, Nậm Bún và hợp lưu với sông Gâm. Nhìn từ xa, Thác Lụa như một dải lụa từ trên trời buông xuống núi. Có thể sẽ còn đa dạng, đa hình phong phú hơn nhiều với sự tưởng tượng và cảm nhận của du khách. Còn với tôi, Thác Lụa giống như một khúc giao tấu hùng tráng của núi rừng hoang sơ.

Người dân ở đây kể rằng: Ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống trong rừng già, người chồng rất giỏi săn bắn, một hôm người chồng nhận được lệnh Thiên sứ lên trời làm nhiệm vụ, chàng trai đã đến đỉnh núi Cốc Nghè nhìn người vợ lần cuối và theo Thiên sứ lên trời.

Rồi người vợ cứ chờ đợi và đi tìm chồng. Nàng cũng đến đúng đỉnh Cốc Nghè, nơi Thác Lụa đổ xuống ngày nay mà chờ, mà đợi chồng mặc cho mưa gió, bão bùng. Nước mắt nàng đã chảy thành suối. Câu chuyện ấy đã trở thành huyền thoại về Thác Lụa. Cũng chính vì vậy, mà càng vào những ngày mưa, Thác Lụa càng trong xanh lạ kỳ.

Rừng núi, bản làng, đất đai nơi Thác Lụa chảy qua từ bao đời đã tạo nên một bản sắc văn hóa của các dân tộc Mông, Tày, Dao dưới chân núi Cốc Nghè. Người Mông bản Hiệp sống gắn bó với rừng, vừa có kinh nghiệm canh tác trên nương rẫy vừa có kinh nghiệm canh tác ruộng bậc thang. Người dân tộc Tày ở đây lại có tài bắt cá, đan lát. Đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Tày có thể dệt nên những chiếc mành cọ độc đáo.

Nơi đây còn gìn giữ và lưu truyền qua bao đời những làn điệu dân ca của người dân tộc Tày, Mông. Cùng đi với chúng tôi có ba cô gái người dân tộc Tày, đứng trước món quà mà thiên nhiên ban tặng, họ cùng cất lên những điệu then nghe tha thiết như gió rừng mênh mang thổi. Tôi tin có thể trong số họ, mai kia sẽ là hướng dẫn viên du lịch trên quê hương mình.

Bí thư Đoàn Thanh niên xã Hà Lang Ma Văn Tích tâm sự với chúng tôi, cách đây hai năm anh đã đến tham quan Khu du lịch sinh thái Thác Đa nằm trong quần thể du lịch nổi tiếng Ao Vua, Khoang Xanh, suối Mơ, suối Tiên (Hà Nội).

Nơi đây được quy hoạch thành một khu vui chơi giải trí, có bể bơi, hồ câu cá, khu phục vụ ăn uống các món ăn đặc sản từ rừng, những “Đài vọng cảnh” trên cao phục vụ du khách. Những điệu “Sênh tiền” của người Mường, kèn lá gọi người yêu của người Mông, hát mừng năm mới của người Tày cũng trở thành những sản phẩm văn hóa thu hút khách du lịch ấn tượng. Anh bảo, nơi đây nếu được đầu tư một cách tích cực, hợp lý thì rừng nguyên sinh Cốc Nghè, Thác Lụa sẽ trở thành một khu du lịch sinh thái sánh vai với những khu du lịch sinh thái nổi tiếng trong nước.

Thác Lụa bao đời nay đã trở thành niềm kiêu hãnh và khát vọng của đồng bào các dân tộc bản Hiệp, xã Hà Lang. Với muôn loài hoa thơm, quả lạ, rừng nguyên sinh Cốc Nghè có thể đầu tư trở thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn du khách. Khi ấy, không chỉ những con dốc thẳng đứng qua rừng nguyên sinh Cốc Nghè sẽ được đầu tư xây dựng thành những con đường bậc thang đưa du khách đến với Thác Lụa, mà nơi đây còn có thể đầu tư thành các khu nhà nghỉ mi ni dưới tán rừng, khu phục vụ ăn uống các món đặc sản của rừng. Những bể bơi, hồ câu cá được tạo nên từ nước Thác Lụa... Con đường từ xã Hà Lang vào bản Hiệp sẽ tấp nập người, xe khi Thác Lụa được đầu tư.

Hai giờ chiều, đoàn chúng tôi từ Thác Lụa xuống núi Cốc Nghè trở về bản Hiệp. Cận chân núi là một thung lũng nơi ở của đồng bào các dân tộc, trong tương lai sẽ là một Làng văn hóa du lịch nằm trong khu du lịch sinh thái Thác Lụa. Tôi tin như thế!

Korean Air! - Theo báo Tuyenquang, Ttvnol

Nên biết:

Có một dòng thác khác cũng có tên thác Lụa. Thác này thuộc địa phận xã Sơn Tinh (huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi). Nhìn từ xa du khách sẽ thấy nó như một tấm dải lụa trắng xóa với những tầng nước chảy quanh năm. Mỗi tầng thác lại mang một vẻ đẹp khác nhau.

< Thác Lụa Sơn Tây

Thác Lụa Sơn Tây với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa hoang sơ với tiếng nước đổ ầm ầm ngày đêm mang âm hưởng của rừng thiêng sâu thẳm. Thêm vào đó là những tán cổ thụ phủ kín cả khu rừng với một màu xanh của bạt ngàn cùng tiếng chim hót líu lo, những tầng dây leo chằng chịt làm cho cảm xúc của mỗi chúng ta như hòa quyện vào thiên nhiên hoang dã.

Dưới chân Thác Lụa, theo dòng nước chảy tạo thành con suối Xà Ruông quanh co, khúc khuỷu với những tảng đá to, nhẵn bóng, xếp chồng nối tiếp nhau làm mê hoặc người lữ khách.
ĐGD

Lên tới xã Hà Lang (thuộc huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang) trời đã sẩm tối. Bí thư Đảng ủy xã Ma Văn Lâm nói: “Muốn lên được Thác Lụa phải qua rừng nguyên sinh Cốc Nghè, sáng sớm mai sẽ có người dẫn đường cho nhà báo, nhưng phải chuẩn bị tâm lý trước do đường lên Thác Lụa “bất khuất” lắm”. Tôi hiểu được ngụ ý về những khó khăn, vất vả ngày mai đã được dự báo trong hai từ “bất khuất” của anh.

Bữa cơm tối giữa cán bộ UBND xã Hà Lang và chúng tôi thật dân dã mà ân tình. Chủ quán người dân tộc Tày nâng chén rượu lên bảo: “Hôm nay nhà nấu mẻ rượu nếp nương mới, chén đầu tiên “kin sưởn” - uống hết nhé, từ chén sau thì “Kin cơ huơ cơ đáy” đấy” (nghĩa là: Uống được đến đâu thì uống).

Tất cả cùng nâng chén chúc cho nhau có một sức khỏe dồi dào, một đôi chân dẻo dai để mai lên với Cốc Nghè, Thác Lụa. Bí thư Đảng ủy xã nói: “Đã có người chuẩn bị cơm lam cho bữa trưa mai trên rừng rồi, yên tâm mà đi thôi”. Chẳng biết có phải vì hương thơm ngào ngạt của rượu nếp nương hay vì lòng mến khách của con người nơi đây khiến tôi thấy lâng lâng.

5 giờ sáng hôm sau, từ bản Hiệp mười người đoàn chúng tôi bắt đầu lên đường gồm Bí thư Đoàn xã, cán bộ Trạm Kiểm lâm xã Hà Lang và sáu người dân bản Hiệp. Đích đến cuối cùng là Thác Lụa, nhưng để đi đến được đó chúng tôi phải đi qua rừng nguyên sinh Cốc Nghè.

Chặng đường lên rừng nguyên sinh Cốc Nghè đi bộ chừng 10 km, qua bốn con suối lớn là: Hăm Vè, Nà Thước, Hiệp, Cốc Nghè. Mặt trời đã lên cao, càng vào gần đến rừng nguyên sinh Cốc Nghè càng mát lạnh.

Theo con đường mòn, vượt qua ba con dốc thẳng đứng, chúng tôi phải nhờ vào những đoạn cây làm gậy chống lấy đà đi tiếp. Qua khu rừng mỡ phải có đến hàng trăm cây gỗ to, cao vút. Đồng chí Lê Tiến Chi, cán bộ Trạm Kiểm lâm xã Hà Lang nói: “Qua rừng mỡ là đến rừng nguyên sinh Cốc Nghè rồi đấy”.

Cả đoàn rẽ trái để vào rừng nguyên sinh Cốc Nghè. Con đường mòn không còn. Lúc này cả đoàn mới thấy hết tài nghệ của “Nhà leo núi” Hoàng Seo Nhà, dân tộc Mông bản Hiệp. Đôi chân đã quen với đường rừng cứ thoăn thoắt đạp cỏ rừng, mở đường dẫn chúng tôi đi. Những chùm hoa lan tai trâu, lan đuôi chồn, lan me, lan kiến, lan hài đua nhau bám vào những cây gỗ cao, rủ hoa xuống. Những buồng chuối rừng chín vàng ruộm lơ lửng trên cao. Rau dớn ở đây mọc thành rừng, có chỗ ngọn vươn cao ngang đầu gối. Ở đây cũng có cả những cây kim tuyến, óng ánh muôn sắc màu mọc lên từ đất.

Người dân bản Hiệp trong đoàn cho biết, đây là loại cây chỉ mọc ở những nơi đất ẩm, có nhiều mùn và nếu ở khu rừng bình thường thì hầu như không thấy loại cây này.

Những bước chân của người đi sau cứ theo những bước chân của người đi trước mà bước. Tất cả dụng cụ cần dùng khi lên Thác Lụa đều được các chàng trai bản Hiệp đảm nhận mang theo. Chính họ là những người đi sau cùng giúp đoàn chúng tôi vượt gềnh suối, núi cao an toàn. Ở họ toát lên một sự phóng khoáng, mạnh mẽ, đôi chân trần phăm phăm bước trên những tảng đá nhọn hoắt dẫn chúng tôi đi.

Đi thêm chừng 2 km, phía trước mặt chúng tôi là vô số những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Cả đoàn dừng lại bên cây phay to mười người ôm không xuể.

“Từ nhiều đời nay, người dân bản Hiệp đã coi việc bảo vệ rừng như bảo vệ cuộc sống của mình rồi. Người dân bản Hiệp kiên trì bám rừng nên tình yêu với rừng lớn lắm” - anh Lưu Văn Vững, dân tộc Tày, bản Hiệp nói. Đôi chân nhanh như sóc của ông Nhà, anh Vững, chị Thảo cùng đi với chúng tôi có lẽ đã đi khắp những quả đồi, suối sâu ở đây, trong họ đều mang tình yêu với rừng xanh để những cây cổ thụ kia cứ vươn cao mãi, trở thành niềm tự hào của người dân nơi đây.

Đồng chí Lê Tiến Chi, cán bộ Trạm Kiểm lâm xã Hà Lang nói: Để làm được một ngôi nhà gỗ, người dân ở đây phải mất 4 đến 5 năm, có khi cả chục năm ròng mới làm xong. Nguyên liệu để làm nhà được người dân lấy từ các cây gỗ bị gió, bão quật ngã, bị đổ, gãy trôi theo các dòng suối. Bao nhiêu năm nay, làm nhiệm vụ ở địa bàn này anh chưa từng thấy người dân nào chặt cây rừng lấy gỗ cả. Vì thế, rừng nguyên sinh Cốc Nghè cứ sừng sững, hiên ngang trường tồn cùng năm tháng.

Qua đoạn có nhiều cây cổ thụ, ông Hoàng Seo Nhà chỉ cho chúng tôi xem phân khỉ thỉnh thoảng xuất hiện dọc các phiến đá. Ông liền lấy cán dao gõ ba tiếng vào thân cây báo hiệu. Sắp đến Thác Lụa.

Huyền thoại mở ra Thác Lụa

Chúng tôi tiếp tục lên cao hơn qua một lối nhỏ toàn đá, không ít lần chúng tôi phải đu vào các cành cây để leo lên. Thác Lụa!

Cả đoàn ngước mặt nhìn lên. Hình ảnh thật hiện ra mà ngỡ như đang trong mơ. Hàng triệu triệu hạt nước nhỏ li ti từ thác nước như sương phả vào mặt chúng tôi. Tất cả đều trầm trồ, thán phục trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của thác.

Tiếp nhận dòng nước của nhiều dòng suối nhỏ, vượt qua bao núi rừng, ghềnh thác, Thác Lụa băng băng, bất ngờ đổ thẳng xuống từ độ cao trên 70 mét để rồi giao hòa cùng với suối Khuổi Muồi, Nậm Bún và hợp lưu với sông Gâm. Nhìn từ xa, Thác Lụa như một dải lụa từ trên trời buông xuống núi. Có thể sẽ còn đa dạng, đa hình phong phú hơn nhiều với sự tưởng tượng và cảm nhận của du khách. Còn với tôi, Thác Lụa giống như một khúc giao tấu hùng tráng của núi rừng hoang sơ.

Người dân ở đây kể rằng: Ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống trong rừng già, người chồng rất giỏi săn bắn, một hôm người chồng nhận được lệnh Thiên sứ lên trời làm nhiệm vụ, chàng trai đã đến đỉnh núi Cốc Nghè nhìn người vợ lần cuối và theo Thiên sứ lên trời.

Rồi người vợ cứ chờ đợi và đi tìm chồng. Nàng cũng đến đúng đỉnh Cốc Nghè, nơi Thác Lụa đổ xuống ngày nay mà chờ, mà đợi chồng mặc cho mưa gió, bão bùng. Nước mắt nàng đã chảy thành suối. Câu chuyện ấy đã trở thành huyền thoại về Thác Lụa. Cũng chính vì vậy, mà càng vào những ngày mưa, Thác Lụa càng trong xanh lạ kỳ.

Rừng núi, bản làng, đất đai nơi Thác Lụa chảy qua từ bao đời đã tạo nên một bản sắc văn hóa của các dân tộc Mông, Tày, Dao dưới chân núi Cốc Nghè. Người Mông bản Hiệp sống gắn bó với rừng, vừa có kinh nghiệm canh tác trên nương rẫy vừa có kinh nghiệm canh tác ruộng bậc thang. Người dân tộc Tày ở đây lại có tài bắt cá, đan lát. Đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Tày có thể dệt nên những chiếc mành cọ độc đáo.

Nơi đây còn gìn giữ và lưu truyền qua bao đời những làn điệu dân ca của người dân tộc Tày, Mông. Cùng đi với chúng tôi có ba cô gái người dân tộc Tày, đứng trước món quà mà thiên nhiên ban tặng, họ cùng cất lên những điệu then nghe tha thiết như gió rừng mênh mang thổi. Tôi tin có thể trong số họ, mai kia sẽ là hướng dẫn viên du lịch trên quê hương mình.

Bí thư Đoàn Thanh niên xã Hà Lang Ma Văn Tích tâm sự với chúng tôi, cách đây hai năm anh đã đến tham quan Khu du lịch sinh thái Thác Đa nằm trong quần thể du lịch nổi tiếng Ao Vua, Khoang Xanh, suối Mơ, suối Tiên (Hà Nội).

Nơi đây được quy hoạch thành một khu vui chơi giải trí, có bể bơi, hồ câu cá, khu phục vụ ăn uống các món ăn đặc sản từ rừng, những “Đài vọng cảnh” trên cao phục vụ du khách. Những điệu “Sênh tiền” của người Mường, kèn lá gọi người yêu của người Mông, hát mừng năm mới của người Tày cũng trở thành những sản phẩm văn hóa thu hút khách du lịch ấn tượng. Anh bảo, nơi đây nếu được đầu tư một cách tích cực, hợp lý thì rừng nguyên sinh Cốc Nghè, Thác Lụa sẽ trở thành một khu du lịch sinh thái sánh vai với những khu du lịch sinh thái nổi tiếng trong nước.

Thác Lụa bao đời nay đã trở thành niềm kiêu hãnh và khát vọng của đồng bào các dân tộc bản Hiệp, xã Hà Lang. Với muôn loài hoa thơm, quả lạ, rừng nguyên sinh Cốc Nghè có thể đầu tư trở thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn du khách. Khi ấy, không chỉ những con dốc thẳng đứng qua rừng nguyên sinh Cốc Nghè sẽ được đầu tư xây dựng thành những con đường bậc thang đưa du khách đến với Thác Lụa, mà nơi đây còn có thể đầu tư thành các khu nhà nghỉ mi ni dưới tán rừng, khu phục vụ ăn uống các món đặc sản của rừng. Những bể bơi, hồ câu cá được tạo nên từ nước Thác Lụa... Con đường từ xã Hà Lang vào bản Hiệp sẽ tấp nập người, xe khi Thác Lụa được đầu tư.

Hai giờ chiều, đoàn chúng tôi từ Thác Lụa xuống núi Cốc Nghè trở về bản Hiệp. Cận chân núi là một thung lũng nơi ở của đồng bào các dân tộc, trong tương lai sẽ là một Làng văn hóa du lịch nằm trong khu du lịch sinh thái Thác Lụa. Tôi tin như thế!

Korean Air! - Theo báo Tuyenquang, Ttvnol

Nên biết:

Có một dòng thác khác cũng có tên thác Lụa. Thác này thuộc địa phận xã Sơn Tinh (huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi). Nhìn từ xa du khách sẽ thấy nó như một tấm dải lụa trắng xóa với những tầng nước chảy quanh năm. Mỗi tầng thác lại mang một vẻ đẹp khác nhau.

< Thác Lụa Sơn Tây

Thác Lụa Sơn Tây với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa hoang sơ với tiếng nước đổ ầm ầm ngày đêm mang âm hưởng của rừng thiêng sâu thẳm. Thêm vào đó là những tán cổ thụ phủ kín cả khu rừng với một màu xanh của bạt ngàn cùng tiếng chim hót líu lo, những tầng dây leo chằng chịt làm cho cảm xúc của mỗi chúng ta như hòa quyện vào thiên nhiên hoang dã.

Dưới chân Thác Lụa, theo dòng nước chảy tạo thành con suối Xà Ruông quanh co, khúc khuỷu với những tảng đá to, nhẵn bóng, xếp chồng nối tiếp nhau làm mê hoặc người lữ khách.
ĐGD

Chúng tôi hướng về phía Tây biên giới, băng qua đồng nước mênh mang Mường Lay tìm đến đất Điện Biên để rồi từ đây hòa mình vào nơi khởi thủy của dòng sông Mã chảy sang từ nước bạn Lào. Chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến năm xưa bỗng chốc hiện về trên suốt quãng đường 100km Điện Biên Đông - Sông Mã, con đường cho tới nay vẫn bụi mờ đất đỏ gập ghềnh lên xuống.

Từ thị trấn Điện Biên Đông vượt 7km đường núi dốc đá sẽ gặp con suối Lư cắt ngang đường khiến bạn phải băng qua cây cầu tre đan được đồng bào nơi đây bắc qua mới có thể tiếp tục cuộc hành trình. Từ đây để tới được Mường Luân mất khoảng 4 giờ mới đi hết 23km đầy gian khổ với nhiều vũng lầy.

Con đường đất vốn không có nền ấy cứ gặp mưa lại lún xuống tạo thành những hố sâu khiến xe chưa kịp thoát khỏi miệng hố trước đã kịp chạm mép hố sau. Phương tiện đi lại chủ yếu ở đây là xe Win bởi độ khỏe của động cơ, vào mùa thu hoạch chỉ những chiếc xe tải có “niên đại” từ thế kỷ trước mới vào được tận nơi để thu mua nông sản.

Mường Luân nằm trên chặng đường xe chúng tôi qua, một bản người Việt gốc Lào cổ đã định cư dọc sông từ hơn bốn thế kỷ nay (từ cuối thế kỷ 16) với di tích là cụm tháp cổ Mường Luân có lối kiến trúc thượng thu hạ thách mang dấu ấn của các cụm tháp Lào, với những họa tiết rắn, nữ thần, hoa sen được kết hợp độc đáo. Tháp Mường Luân là một trong bốn ngôi tháp cổ nhất nước ta hiện nay, được xây dựng vào khoảng những năm 1570 đến 1590.

Đây cũng chính là nơi những dòng suối lớn nhỏ từ các khe núi dồn về hợp lưu với dòng Nậm Núa tạo thành Sông Mã. Chảy qua Bó Sinh, huyện Sông Mã, Chiềng Khương rồi chảy sang Lào, lại trở về Tén Tằn - Mường Lát, Quan Hóa và đổ ra biển ở cửa Hới, tới đây sông đã chảy trọn 410km trên lãnh thổ Việt Nam.

Chặng đường dài chừng 70km trên tỉnh lộ 115 nhưng thực chất chỉ là con đường đất (có đoạn là đá hộc đan xen với một quãng ngắn đường bê tông liên huyện) men triền núi dọc theo sông qua Pá Ma, Bó Sinh, Mường Nưa, Nà Dìa, Chiềng Sơ. Và chỉ tới khi về đến địa phận huyện Sông Mã, dòng sông mới dịu hiền uốn lượn phô bày vẻ đẹp ban sơ đầy lôi cuốn, đâu đó ven sông những cô gái Thái đang rủ áng tóc mây bên bờ sông mẹ.


Và cũng kể từ đây, núi hạ dần độ cao, sông Mã hiện diện rõ nét trong đời sống của người dân. Những chuyến đò ngang, phía xa xa những nương ngô, nương lúa xanh ngút ngàn hứa hẹn đời sống no ấm hơn đang ôm ấp bao phủ khắp núi rừng. Đây là nơi cộng cư của gần một chục dân tộc anh em, như: Phù Lá, Khơ Mú, Lào, Mường, Xinh Mun, Thái, H’mông…

Hôm sau, trên chặng đường về khi qua ngả Bắc Yên - Phù Yên mà đâu đó trong mỗi chúng tôi vẫn còn vương vấn “hồn lau nẻo bến bờ” trên những chặng đường Tây Tiến đã qua.

Korean Air! - Theo Tuấn Linh (ANTĐ), internet

Chúng tôi hướng về phía Tây biên giới, băng qua đồng nước mênh mang Mường Lay tìm đến đất Điện Biên để rồi từ đây hòa mình vào nơi khởi thủy của dòng sông Mã chảy sang từ nước bạn Lào. Chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến năm xưa bỗng chốc hiện về trên suốt quãng đường 100km Điện Biên Đông - Sông Mã, con đường cho tới nay vẫn bụi mờ đất đỏ gập ghềnh lên xuống.

Từ thị trấn Điện Biên Đông vượt 7km đường núi dốc đá sẽ gặp con suối Lư cắt ngang đường khiến bạn phải băng qua cây cầu tre đan được đồng bào nơi đây bắc qua mới có thể tiếp tục cuộc hành trình. Từ đây để tới được Mường Luân mất khoảng 4 giờ mới đi hết 23km đầy gian khổ với nhiều vũng lầy.

Con đường đất vốn không có nền ấy cứ gặp mưa lại lún xuống tạo thành những hố sâu khiến xe chưa kịp thoát khỏi miệng hố trước đã kịp chạm mép hố sau. Phương tiện đi lại chủ yếu ở đây là xe Win bởi độ khỏe của động cơ, vào mùa thu hoạch chỉ những chiếc xe tải có “niên đại” từ thế kỷ trước mới vào được tận nơi để thu mua nông sản.

Mường Luân nằm trên chặng đường xe chúng tôi qua, một bản người Việt gốc Lào cổ đã định cư dọc sông từ hơn bốn thế kỷ nay (từ cuối thế kỷ 16) với di tích là cụm tháp cổ Mường Luân có lối kiến trúc thượng thu hạ thách mang dấu ấn của các cụm tháp Lào, với những họa tiết rắn, nữ thần, hoa sen được kết hợp độc đáo. Tháp Mường Luân là một trong bốn ngôi tháp cổ nhất nước ta hiện nay, được xây dựng vào khoảng những năm 1570 đến 1590.

Đây cũng chính là nơi những dòng suối lớn nhỏ từ các khe núi dồn về hợp lưu với dòng Nậm Núa tạo thành Sông Mã. Chảy qua Bó Sinh, huyện Sông Mã, Chiềng Khương rồi chảy sang Lào, lại trở về Tén Tằn - Mường Lát, Quan Hóa và đổ ra biển ở cửa Hới, tới đây sông đã chảy trọn 410km trên lãnh thổ Việt Nam.

Chặng đường dài chừng 70km trên tỉnh lộ 115 nhưng thực chất chỉ là con đường đất (có đoạn là đá hộc đan xen với một quãng ngắn đường bê tông liên huyện) men triền núi dọc theo sông qua Pá Ma, Bó Sinh, Mường Nưa, Nà Dìa, Chiềng Sơ. Và chỉ tới khi về đến địa phận huyện Sông Mã, dòng sông mới dịu hiền uốn lượn phô bày vẻ đẹp ban sơ đầy lôi cuốn, đâu đó ven sông những cô gái Thái đang rủ áng tóc mây bên bờ sông mẹ.


Và cũng kể từ đây, núi hạ dần độ cao, sông Mã hiện diện rõ nét trong đời sống của người dân. Những chuyến đò ngang, phía xa xa những nương ngô, nương lúa xanh ngút ngàn hứa hẹn đời sống no ấm hơn đang ôm ấp bao phủ khắp núi rừng. Đây là nơi cộng cư của gần một chục dân tộc anh em, như: Phù Lá, Khơ Mú, Lào, Mường, Xinh Mun, Thái, H’mông…

Hôm sau, trên chặng đường về khi qua ngả Bắc Yên - Phù Yên mà đâu đó trong mỗi chúng tôi vẫn còn vương vấn “hồn lau nẻo bến bờ” trên những chặng đường Tây Tiến đã qua.

Korean Air! - Theo Tuấn Linh (ANTĐ), internet

Sông Cổ Chiên là một nhánh lớn của con sông Tiền chảy ngang qua tỉnh Vĩnh Long. Thành phố Vĩnh Long thời Nguyễn là nơi ghi nhiều dấu ấn lịch sử mở cõi về đất phương Nam. Nơi đây còn lưu lại nhiều di tích như thành Long Hồ (xây dựng năm 1813), Văn thánh miếu, Thất phủ miếu, chùa Giác Thiên…

Theo các tư liệu lịch sử, địa phận tỉnh Vĩnh Long nguyên là đất Tầm Đôn - Xoài Rạp (đất Tầm Đôn còn gọi là xứ Tầm Đôn), vị trí trung tâm của Tầm Đôn xưa thuộc khu vực thành phố Vĩnh Long ngày nay. Năm 1732, Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1696-1738) đã lập ở phía nam dinh phiên trấn đơn vị hành chính mới là dinh Long Hồ, châu Định Viễn, tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay.

< Dinh Long Hồ, dấu tích của thành Long Hồ, nay thuộc thành phố Vĩnh Long.

Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như Vũng Liêm, Trà Ôn...

Đến giữa thế kỷ 18, dinh Long Hồ là thủ phủ của vùng đất phía nam và là đại bản doanh của quân đội nhà Nguyễn có nhiệm vụ phòng thủ, chống ngoại xâm. Nơi đây cũng từng diễn ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. Năm 1784, tại sông Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh bại liên quân Xiêm La can thiệp do Nguyễn Ánh cầu viện.

< Di tích cửa hữu thành Long Hồ được dựng lại.

Ngoài những điểm vui chơi, giải trí sôi động phù hợp với giới trẻ, nhiều du khách đến Vĩnh Long có sở thích thăm lại những dấu ấn văn hóa, lịch sử từ thời mở cõi. Nơi đầu tiên nên tìm đến là di tích “cửa hữu thành Long Hồ”. Đây là công trình kiến trúc vừa mới phục dựng lại trên nền cũ của thành Long Hồ xưa, hiện thuộc phường 1, thành phố Vĩnh Long. Nơi đây có một cây đa rất to lớn, sum suê là dấu vết cuối cùng còn lại của thành Long Hồ xưa.

Theo sách Gia Định Thành Thông Chí, thành Long Hồ là một trung tâm hành chính, quân sự quan trọng của chúa Nguyễn - triều Nguyễn ở phương Nam. Năm Quí Dậu, tháng 2, đời Gia Long thứ 12 (1813) triều đình Huế lệnh cho quan Khâm mạng trấn thủ Lưu Phước Tường của trấn Vĩnh Thanh xây dựng thành.

Thành đắp bằng đất, cửa chính hướng Đông - Nam. Chu vi thành rộng 750 trượng (một trượng bằng 3 thước), cao 1 trượng dày 2,5 trượng. Thành có 5 cửa quay về 5 hướng Đông - Tây - Bắc - Đông Nam và Tây Nam. Cửa tiền của thành ở hướng đông.

Bên ngoài mỗi cửa thành đều có một đoạn thành cong án ngữ bao vòng cửa. Bốn góc thành tạo thành hình hoa mai. Quanh thành có hào rộng, sông sâu. Trong thành có hai con đường dọc, 3 đường ngang, 3 công thự, kho lương, nhà thừa ty, trại lính và hành cung. Phía đông thành có quan lộ chạy dọc sông Long Hồ, phía tả là nhà Sứ Quán, phía hữu là chợ Vĩnh Thanh. Riêng góc nam của thành, chỗ tiếp giáp với sông Long Hồ, có xưởng Thủy sư (xưởng đóng tàu).

< Văn Xương các, VĩnhLong.

Trải qua thời gian và những biến động lịch sử, thành xưa chỉ còn trong tư liệu, sử sách. Di tích ngày nay gồm có cổng thành mô phỏng theo sách, tư liệu cũ, giả cổ khá đẹp, cửa vòm hình vòng cung, mái lợp ngói miểng xanh. Qua cổng thành bước lên 18 bậc tam cấp sẽ đến nhà bia. Nhà bia có bố cục đơn sơ nhưng trang trọng với lư đỉnh đặt trước văn bia. Văn bia ghi, kể tóm tắt, sơ lược nguồn gốc, xuất xứ của trấn Vĩnh Thanh và thành Long Hồ. Các hoa văn, phù điêu trang trí trong nhà bia đơn giản hài hòa với nét chân phương, thanh nhã. Chung quanh di tích là một khuôn viên thoáng mát có nhiều cây cảnh, hoa kiểng với “cây đa cửa hữu” tỏa che rợp mát một vùng đất rộng…

Viếng thăm di tích “cửa hữu thành Long Hồ”, ta dễ có cảm xúc hoài cổ khi mường tượng nơi đây, xưa kia, hơn một thế kỷ trước là thành quách oai nghiêm, trú sở hiểm yếu của quân binh thành Long Hồ, sau là thành Vĩnh Long, bây giờ chỉ còn lơ thơ dấu vết.

< Cầu Lộ, Vĩnh Long.

Đến thăm Văn Thánh Miếu ở khóm 3, phường 4, thành phố Vĩnh Long, ta sẽ nhìn thấy lại những dấu xưa trên những di tích còn đậm dấu ấn văn hoá cách đây non 150 năm. Văn Thánh Miếu được xây dựng năm 1864, thờ đức Khổng tử và các học trò của ông như Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử… Văn Thánh miếu toạ lạc trên mảnh đất rộng trên một hecta ngó ra sông Long Hồ. Kiến trúc của Văn Thánh Miếu sau nhiều lần trùng tu, sửa chữa mang dáng dấp vừa cổ xưa vừa hiện đại, nhưng vẫn nổi bật được sắc thái văn hoá phương đông qua cấu trúc, bố cục cũng như những đường nét nghệ thuật kiến trúc tài hoa.

Cổng tam quan xây theo lối cổ lâu có ba tầng mái. Sau cổng là thần đạo đi thẳng vào điện Đại Thành. Hai bên là hai hàng sao cao vút, giữa thần đạo là ba tấm bia đá ghi lại những sự việc có liên quan đến Văn Thánh miếu. Cuối đường thần đạo là diện Đại Thành. Bên trong, nơi chính điện thờ Khổng Tử, hai bên tả ban, hữu ban thờ các thánh nho. Bên ngoài điện Đại Thành có hai miếu nhỏ (tả vu, hữu vu) thờ Thất thập nhị hiền.

< Chùa Giác Thiên.

Trong khuôn viên Văn Thánh Miếu còn có ao sen và một công trình kiến trúc nhỏ nằm bên phải lối vào; đó là Văn Xương các (còn gọi là Tụy Văn lâu). Hai bên phải và trái trước Văn Xương các có hai khẩu súng thần công đại bác, tương truyền là súng đã dùng để bảo vệ thành Vĩnh Long từ năm 1860. Văn Xương các là nơi thờ các ngài Văn Xương và Võ Trường Toản, đồng thời làm nơi dạy học, đọc sách, hội họp; còn là nơi các văn nhân, thi sĩ thường đến ngâm thơ, vịnh cảnh và đàm luận văn chương. Hàng năm ngày Thơ Việt Nam thường tổ chức nơi đây.

Viếng chùa Giác Thiên bạn sẽ rất thú vị khi khám phá tại ngôi chùa nầy có bia của 34 vị cao tăng từ Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ năm 1907, hiện tọa lạc tại số 70 đường Trần Phú thành phố Vĩnh Long. Trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa có thêm cổ lầu, cổng tam quan giả cổ, đài Bát Nhã Tâm Kinh với phong cách kiến trúc vẫn giữ được bản sắc văn hóa vốn có. Những khi lễ hội, trai kỳ, có rất đông bà con Phật tử và khách các nơi đến tham quan, cúng bái, vãn cảnh.

< Cầu Lầu.

Vĩnh Long có hai công trình nhỏ nhưng đã có hàng trăm năm tuổi và đáng chú ý về ý nghĩa di tích của một thời phát triển giao thông địa phương. Thứ nhất là cầu Lầu (ở phường 1 thành phố Vĩnh Long) bắc qua con rạch Cầu Lầu, vốn cũng là một đoạn hào bảo về thành Long Hồ xưa kia. Hồi đó, cầu Lầu là một cầu gỗ căm xe, lát ván, giữa có vọng gác dựng trên 4 cây cột cao, rộng độ 6-7 mét, lợp ngói âm dương, bốn bên đều có lỗ châu mai. Lầu gác nầy có nhiệm vụ quan sát, theo dõi người và các phương tiện qua cầu vào khu vực thành Long Hồ. Tên cầu Lầu có từ đó. Ngày nay, gác lầu không còn nữa, nhưng tên gọi cầu Lầu đã trở thành quen thuộc với người Vĩnh Long. Ở đầu cầu phía bên kia (chỗ có chợ Cầu Lầu hiện nay) khi xưa là xóm Lò Rèn chuyên làm đồ binh khí cho quân lính đóng trong tòa thành.

< Sông Cổ Chiên, đoạn qua TP.Vĩnh Long.

Cây cầu thứ hai cũng ở phường 1 là cầu Lộ, bắc qua rạch Ngư Câu (hay còn gọi là rạch Cái Cá) là cây cầu có từ đời Pháp thuộc. Cầu có kiến trúc đơn giản. Đặc biệt dọc theo hai bên lan can cầu vẫn còn hai hàng cột đèn đúc bằng xi măng hình khối lăng trụ trông rất đẹp mắt. Ở cầu Lầu, quan quân có nhiệm vụ canh phòng mặt sông Long Hồ; còn ở Cầu Lộ, quan quân có nhiệm vụ canh phòng mặt sông Cổ Chiên. Nhưng đến khi quân Pháp đến chiếm thành Vĩnh Long ít lâu, Cầu Lầu bị phá đi, và cho làm lại bằng bê tông cốt thép. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những ngọn đèn trên Cầu Lộ vẫn còn với thời gian như những nhân chứng qua bao cuộc đổi thay.

Korean Air! - Theo Thủy Bình (Ashui), internet

Sông Cổ Chiên là một nhánh lớn của con sông Tiền chảy ngang qua tỉnh Vĩnh Long. Thành phố Vĩnh Long thời Nguyễn là nơi ghi nhiều dấu ấn lịch sử mở cõi về đất phương Nam. Nơi đây còn lưu lại nhiều di tích như thành Long Hồ (xây dựng năm 1813), Văn thánh miếu, Thất phủ miếu, chùa Giác Thiên…

Theo các tư liệu lịch sử, địa phận tỉnh Vĩnh Long nguyên là đất Tầm Đôn - Xoài Rạp (đất Tầm Đôn còn gọi là xứ Tầm Đôn), vị trí trung tâm của Tầm Đôn xưa thuộc khu vực thành phố Vĩnh Long ngày nay. Năm 1732, Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1696-1738) đã lập ở phía nam dinh phiên trấn đơn vị hành chính mới là dinh Long Hồ, châu Định Viễn, tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay.

< Dinh Long Hồ, dấu tích của thành Long Hồ, nay thuộc thành phố Vĩnh Long.

Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như Vũng Liêm, Trà Ôn...

Đến giữa thế kỷ 18, dinh Long Hồ là thủ phủ của vùng đất phía nam và là đại bản doanh của quân đội nhà Nguyễn có nhiệm vụ phòng thủ, chống ngoại xâm. Nơi đây cũng từng diễn ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. Năm 1784, tại sông Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh bại liên quân Xiêm La can thiệp do Nguyễn Ánh cầu viện.

< Di tích cửa hữu thành Long Hồ được dựng lại.

Ngoài những điểm vui chơi, giải trí sôi động phù hợp với giới trẻ, nhiều du khách đến Vĩnh Long có sở thích thăm lại những dấu ấn văn hóa, lịch sử từ thời mở cõi. Nơi đầu tiên nên tìm đến là di tích “cửa hữu thành Long Hồ”. Đây là công trình kiến trúc vừa mới phục dựng lại trên nền cũ của thành Long Hồ xưa, hiện thuộc phường 1, thành phố Vĩnh Long. Nơi đây có một cây đa rất to lớn, sum suê là dấu vết cuối cùng còn lại của thành Long Hồ xưa.

Theo sách Gia Định Thành Thông Chí, thành Long Hồ là một trung tâm hành chính, quân sự quan trọng của chúa Nguyễn - triều Nguyễn ở phương Nam. Năm Quí Dậu, tháng 2, đời Gia Long thứ 12 (1813) triều đình Huế lệnh cho quan Khâm mạng trấn thủ Lưu Phước Tường của trấn Vĩnh Thanh xây dựng thành.

Thành đắp bằng đất, cửa chính hướng Đông - Nam. Chu vi thành rộng 750 trượng (một trượng bằng 3 thước), cao 1 trượng dày 2,5 trượng. Thành có 5 cửa quay về 5 hướng Đông - Tây - Bắc - Đông Nam và Tây Nam. Cửa tiền của thành ở hướng đông.

Bên ngoài mỗi cửa thành đều có một đoạn thành cong án ngữ bao vòng cửa. Bốn góc thành tạo thành hình hoa mai. Quanh thành có hào rộng, sông sâu. Trong thành có hai con đường dọc, 3 đường ngang, 3 công thự, kho lương, nhà thừa ty, trại lính và hành cung. Phía đông thành có quan lộ chạy dọc sông Long Hồ, phía tả là nhà Sứ Quán, phía hữu là chợ Vĩnh Thanh. Riêng góc nam của thành, chỗ tiếp giáp với sông Long Hồ, có xưởng Thủy sư (xưởng đóng tàu).

< Văn Xương các, VĩnhLong.

Trải qua thời gian và những biến động lịch sử, thành xưa chỉ còn trong tư liệu, sử sách. Di tích ngày nay gồm có cổng thành mô phỏng theo sách, tư liệu cũ, giả cổ khá đẹp, cửa vòm hình vòng cung, mái lợp ngói miểng xanh. Qua cổng thành bước lên 18 bậc tam cấp sẽ đến nhà bia. Nhà bia có bố cục đơn sơ nhưng trang trọng với lư đỉnh đặt trước văn bia. Văn bia ghi, kể tóm tắt, sơ lược nguồn gốc, xuất xứ của trấn Vĩnh Thanh và thành Long Hồ. Các hoa văn, phù điêu trang trí trong nhà bia đơn giản hài hòa với nét chân phương, thanh nhã. Chung quanh di tích là một khuôn viên thoáng mát có nhiều cây cảnh, hoa kiểng với “cây đa cửa hữu” tỏa che rợp mát một vùng đất rộng…

Viếng thăm di tích “cửa hữu thành Long Hồ”, ta dễ có cảm xúc hoài cổ khi mường tượng nơi đây, xưa kia, hơn một thế kỷ trước là thành quách oai nghiêm, trú sở hiểm yếu của quân binh thành Long Hồ, sau là thành Vĩnh Long, bây giờ chỉ còn lơ thơ dấu vết.

< Cầu Lộ, Vĩnh Long.

Đến thăm Văn Thánh Miếu ở khóm 3, phường 4, thành phố Vĩnh Long, ta sẽ nhìn thấy lại những dấu xưa trên những di tích còn đậm dấu ấn văn hoá cách đây non 150 năm. Văn Thánh Miếu được xây dựng năm 1864, thờ đức Khổng tử và các học trò của ông như Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử… Văn Thánh miếu toạ lạc trên mảnh đất rộng trên một hecta ngó ra sông Long Hồ. Kiến trúc của Văn Thánh Miếu sau nhiều lần trùng tu, sửa chữa mang dáng dấp vừa cổ xưa vừa hiện đại, nhưng vẫn nổi bật được sắc thái văn hoá phương đông qua cấu trúc, bố cục cũng như những đường nét nghệ thuật kiến trúc tài hoa.

Cổng tam quan xây theo lối cổ lâu có ba tầng mái. Sau cổng là thần đạo đi thẳng vào điện Đại Thành. Hai bên là hai hàng sao cao vút, giữa thần đạo là ba tấm bia đá ghi lại những sự việc có liên quan đến Văn Thánh miếu. Cuối đường thần đạo là diện Đại Thành. Bên trong, nơi chính điện thờ Khổng Tử, hai bên tả ban, hữu ban thờ các thánh nho. Bên ngoài điện Đại Thành có hai miếu nhỏ (tả vu, hữu vu) thờ Thất thập nhị hiền.

< Chùa Giác Thiên.

Trong khuôn viên Văn Thánh Miếu còn có ao sen và một công trình kiến trúc nhỏ nằm bên phải lối vào; đó là Văn Xương các (còn gọi là Tụy Văn lâu). Hai bên phải và trái trước Văn Xương các có hai khẩu súng thần công đại bác, tương truyền là súng đã dùng để bảo vệ thành Vĩnh Long từ năm 1860. Văn Xương các là nơi thờ các ngài Văn Xương và Võ Trường Toản, đồng thời làm nơi dạy học, đọc sách, hội họp; còn là nơi các văn nhân, thi sĩ thường đến ngâm thơ, vịnh cảnh và đàm luận văn chương. Hàng năm ngày Thơ Việt Nam thường tổ chức nơi đây.

Viếng chùa Giác Thiên bạn sẽ rất thú vị khi khám phá tại ngôi chùa nầy có bia của 34 vị cao tăng từ Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ năm 1907, hiện tọa lạc tại số 70 đường Trần Phú thành phố Vĩnh Long. Trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa có thêm cổ lầu, cổng tam quan giả cổ, đài Bát Nhã Tâm Kinh với phong cách kiến trúc vẫn giữ được bản sắc văn hóa vốn có. Những khi lễ hội, trai kỳ, có rất đông bà con Phật tử và khách các nơi đến tham quan, cúng bái, vãn cảnh.

< Cầu Lầu.

Vĩnh Long có hai công trình nhỏ nhưng đã có hàng trăm năm tuổi và đáng chú ý về ý nghĩa di tích của một thời phát triển giao thông địa phương. Thứ nhất là cầu Lầu (ở phường 1 thành phố Vĩnh Long) bắc qua con rạch Cầu Lầu, vốn cũng là một đoạn hào bảo về thành Long Hồ xưa kia. Hồi đó, cầu Lầu là một cầu gỗ căm xe, lát ván, giữa có vọng gác dựng trên 4 cây cột cao, rộng độ 6-7 mét, lợp ngói âm dương, bốn bên đều có lỗ châu mai. Lầu gác nầy có nhiệm vụ quan sát, theo dõi người và các phương tiện qua cầu vào khu vực thành Long Hồ. Tên cầu Lầu có từ đó. Ngày nay, gác lầu không còn nữa, nhưng tên gọi cầu Lầu đã trở thành quen thuộc với người Vĩnh Long. Ở đầu cầu phía bên kia (chỗ có chợ Cầu Lầu hiện nay) khi xưa là xóm Lò Rèn chuyên làm đồ binh khí cho quân lính đóng trong tòa thành.

< Sông Cổ Chiên, đoạn qua TP.Vĩnh Long.

Cây cầu thứ hai cũng ở phường 1 là cầu Lộ, bắc qua rạch Ngư Câu (hay còn gọi là rạch Cái Cá) là cây cầu có từ đời Pháp thuộc. Cầu có kiến trúc đơn giản. Đặc biệt dọc theo hai bên lan can cầu vẫn còn hai hàng cột đèn đúc bằng xi măng hình khối lăng trụ trông rất đẹp mắt. Ở cầu Lầu, quan quân có nhiệm vụ canh phòng mặt sông Long Hồ; còn ở Cầu Lộ, quan quân có nhiệm vụ canh phòng mặt sông Cổ Chiên. Nhưng đến khi quân Pháp đến chiếm thành Vĩnh Long ít lâu, Cầu Lầu bị phá đi, và cho làm lại bằng bê tông cốt thép. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những ngọn đèn trên Cầu Lộ vẫn còn với thời gian như những nhân chứng qua bao cuộc đổi thay.

Korean Air! - Theo Thủy Bình (Ashui), internet

Những cơn mưa xứ Kinh Bắc thật kỳ lạ, có khi đuổi theo phía sau xe, có lúc lại chặn trước mặt. Lúc bên đông mưa, còn phía tây lại hửng nắng... Những chiếc xe máy “chiến” ì ạch nuốt từng kilômet đường đất đá lởm chởm trên tỉnh lộ 293.

< Núi non ở Tây Yên Tử.

Sau 2 giờ rong ruổi trên cung đường gập ghềnh từ ngã ba Lục Nam tới xã Lục Sơn, du khách sẽ đặt chân tới khu danh thắng suối Nước Vàng (huyện Lục Nam, Bắc Giang). Hình ảnh dễ bắt gặp là những dãy núi trập trùng, ngút ngát những hàng keo, bạch đàn xanh mướt. Một con suối trong veo nằm vắt ngang giữa đường như phân định rõ ranh giới giữa khu danh thắng với thôn Đồng Vành nằm kề cận.

Từ đây, để tới được suối Nước Vàng du khách cần có chỉ dẫn của người dân địa phương, men theo con đường đất chừng vài trăm mét là có thể bắt gặp dòng suối có màu vàng sánh, không hề gợn đục. Nhìn kỹ dưới lòng suối sẽ thấy những khối đá nhám kết tinh, tảng thì trắng bong, tảng có màu vàng óng ngổn ngang.

Con suối chạy dọc theo dãy núi Phật Sơn cao 800-900 m tạo nên những khúc biến tấu thú vị: có chỗ nước tuôn chảy ào ào, chỗ thì róc rách, chỗ thì lững lờ trôi êm đềm. Đưa tay hòa vào dòng nước mát lạnh có cảm giác như vừa được “gột rửa bụi trần”.

< Suối Nước Vàng óng áng như mật ong và trong vắt.

Có nhiều giả thiết khác nhau về màu vàng của dòng suối ở đây. Các nhà khoa học cho rằng do suối chảy ra từ một mỏ than lớn của Quảng Ninh hoặc có thể do quá trình phân hủy và kết tụ của cây cối hàng ngàn năm. Còn dân bản địa cho rằng do nước đọng trên những phiến đá cát nhãn màu vàng nên mới có màu như thế.

Dân gian thì truyền miệng nhau rằng nước có màu vàng vì nguồn xuất phát từ Phật. Người dân địa phương thì dòng suối không hề bị ô nhiễm bởi từ hàng chục năm qua họ vẫn sinh hoạt hàng ngày trên dòng suối mà không bị bệnh tật.

Từ hạ nguồn suối Nước Vàng, du khách tiếp tục băng qua 7 thác nước  để tới thượng nguồn thác Giót - con thác cao nhất (50m) trong hệ thống thác nơi đây. Đường tới thác Giót chỉ dài 4 km nhưng vô cùng hiểm trở vì phải băng qua suối, đu cây rừng và cheo leo trên các vách đá dựng đứng.

Bù lại sau những gian khổ ấy, lữ khách sẽ có dịp được khám phá thế giới của rừng nguyên sinh kỳ bí với những cây nấm linh chi quý hiếm, những khóm phong lan rừng thơm ngát dọc đường, những âm vang xao động của dòng suối, thác nước và chim chóc trong rừng.

Cứ đi một quãng lại bắt gặp dòng suối nước vàng óng ánh như mật ong. Dưới lòng suối là những viên sỏi trắng, đá nhám vàng. Tiếng suối róc rách, khi réo rắt khi êm đềm tạo nên những âm điệu trầm bổng của bản nhạc núi rừng.

Sau hơn ba giờ băng rừng vượt suối, cuối cùng thác Giót hùng vĩ cũng hiện ra trước mắt. Dòng thác cao ngất như dải lụa phấp phới bay trong gió. Hết lớp nước này đến lớp nước khác chạm vào đỉnh đá bắn ra hàng tỉ bọt nước mát lạnh bao trùm không gian.

< Thác Giót.

Ngắm lên dòng thác hùng vĩ mát lạnh còn thấy những lớp đá phủ rêu xanh mượt. Không khí trong lành, man mát sẽ tiêu tan những mệt mỏi, âu lo sau chặng đường bách bộ. Khách ngồi trước bậc đá phủ rêu vàng có thể liên tưởng đến việc ngồi trong căn phòng có máy lạnh, không gì tuyệt bằng.

Vậy nhưng nếu lên đến thác Giót rồi mà không đến đồng cỏ xanh thì kể như chưa đến đây! Vậy là lại balô, máy ảnh trên vai, khách tiếp tục hành trình. Con đường rừng 2,5km băng qua những bụi rậm, những rừng tre xanh mướt, mỏm đá phủ đầy rêu phong. Gần hai giờ loanh quanh trong rừng, đã có lúc bị lạc đường nhưng rồi mọi sự tốt đẹp.

Cảm giác choáng ngợp khi trước mắt là một đồng cỏ rộng thênh thang điểm xuyết những cánh hoa tím ngát và những hòn đá tảng hình thù kỳ lạ như con rùa, quả trứng, hình người ôm ấp. Đây chính là đỉnh núi Phật Sơn cao gần 1.000m so với mực nước biển. Những bãi cỏ xanh mướt lung linh trong nắng, gió mùa thu tuyệt diệu. Dân địa phương gọi đây là Sân Trời hay Lái Cỏ. Cảnh sắc nơi đây làm cho bất kỳ ai một lần đến cũng phải xao xuyến.

Đặc biệt trên những tảng đá nằm bẹp dưới đất, từ các khe tiết ra thứ nước trong vắt, nhìn từ xa có ảo giác như một dòng suối đang tuôn chảy giữa thảo nguyên, cảnh vật cứ nửa hư nửa thực...

Gợi ý:

Từ Hà Nội, khách có thể về TP Bắc Giang theo quốc lộ 1A rồi rẽ vào quốc lộ 31 đến thị trấn Đồi Ngô - Lục Nam gần 100km. Từ thị trấn Đồi Ngô qua cầu Lục Nam, đi thác Thùm Thùm rồi men theo con đường 293 gần 40km sẽ đến suối nước vàng chinh phục đỉnh Phật Sơn. Đây là cung đường ngắn nhất. Xe cần được bảo dưỡng trước hành trình và mang theo dụng cụ sửa chữa cần thiết.

Để khám phá và chinh phục con suối từ phía hạ nguồn lên miền thượng mất quá nửa ngày, sau khi băng qua gần 20 thác ghềnh lớn nhỏ, một số thác đẹp như thác Anh Vũ, thác Mây, Thác Giót, Thác Nước Vàng...

Thác nào cũng đẹp, cũng hấp dẫn và lạ mắt, phía dưới mỗi thác đều có những bồn tắm thiên tạo có thể chứa đến vài chục người, là nơi để bạn có thể thỏa sức vùng vẫy, giải nhiệt cùng dòng nước mát lạnh từ trên cao dội lên cơ thể.

Sau khi đã chinh phục thác Giót, đỉnh Phật Sơn, mọi người nên chọn cách đi về theo con đường bêtông chạy từ trung tâm xã Lục Sơn đến thị trấn Chũ (Lục Ngạn) rồi về TP Bắc Giang theo quốc lộ 31, tránh đi lại con đường 293 nhiều bất trắc. Hoặc chạy theo con đường nhựa về thị trấn Đông Triều - Quảng Ninh, rồi ngược quốc lộ 18 qua Bắc Ninh về Hà Nội.

Korean Air! - Tổng hợp từ Dulichbacgiang, TTO và nhiều nguồn ảnh khác

Những cơn mưa xứ Kinh Bắc thật kỳ lạ, có khi đuổi theo phía sau xe, có lúc lại chặn trước mặt. Lúc bên đông mưa, còn phía tây lại hửng nắng... Những chiếc xe máy “chiến” ì ạch nuốt từng kilômet đường đất đá lởm chởm trên tỉnh lộ 293.

< Núi non ở Tây Yên Tử.

Sau 2 giờ rong ruổi trên cung đường gập ghềnh từ ngã ba Lục Nam tới xã Lục Sơn, du khách sẽ đặt chân tới khu danh thắng suối Nước Vàng (huyện Lục Nam, Bắc Giang). Hình ảnh dễ bắt gặp là những dãy núi trập trùng, ngút ngát những hàng keo, bạch đàn xanh mướt. Một con suối trong veo nằm vắt ngang giữa đường như phân định rõ ranh giới giữa khu danh thắng với thôn Đồng Vành nằm kề cận.

Từ đây, để tới được suối Nước Vàng du khách cần có chỉ dẫn của người dân địa phương, men theo con đường đất chừng vài trăm mét là có thể bắt gặp dòng suối có màu vàng sánh, không hề gợn đục. Nhìn kỹ dưới lòng suối sẽ thấy những khối đá nhám kết tinh, tảng thì trắng bong, tảng có màu vàng óng ngổn ngang.

Con suối chạy dọc theo dãy núi Phật Sơn cao 800-900 m tạo nên những khúc biến tấu thú vị: có chỗ nước tuôn chảy ào ào, chỗ thì róc rách, chỗ thì lững lờ trôi êm đềm. Đưa tay hòa vào dòng nước mát lạnh có cảm giác như vừa được “gột rửa bụi trần”.

< Suối Nước Vàng óng áng như mật ong và trong vắt.

Có nhiều giả thiết khác nhau về màu vàng của dòng suối ở đây. Các nhà khoa học cho rằng do suối chảy ra từ một mỏ than lớn của Quảng Ninh hoặc có thể do quá trình phân hủy và kết tụ của cây cối hàng ngàn năm. Còn dân bản địa cho rằng do nước đọng trên những phiến đá cát nhãn màu vàng nên mới có màu như thế.

Dân gian thì truyền miệng nhau rằng nước có màu vàng vì nguồn xuất phát từ Phật. Người dân địa phương thì dòng suối không hề bị ô nhiễm bởi từ hàng chục năm qua họ vẫn sinh hoạt hàng ngày trên dòng suối mà không bị bệnh tật.

Từ hạ nguồn suối Nước Vàng, du khách tiếp tục băng qua 7 thác nước  để tới thượng nguồn thác Giót - con thác cao nhất (50m) trong hệ thống thác nơi đây. Đường tới thác Giót chỉ dài 4 km nhưng vô cùng hiểm trở vì phải băng qua suối, đu cây rừng và cheo leo trên các vách đá dựng đứng.

Bù lại sau những gian khổ ấy, lữ khách sẽ có dịp được khám phá thế giới của rừng nguyên sinh kỳ bí với những cây nấm linh chi quý hiếm, những khóm phong lan rừng thơm ngát dọc đường, những âm vang xao động của dòng suối, thác nước và chim chóc trong rừng.

Cứ đi một quãng lại bắt gặp dòng suối nước vàng óng ánh như mật ong. Dưới lòng suối là những viên sỏi trắng, đá nhám vàng. Tiếng suối róc rách, khi réo rắt khi êm đềm tạo nên những âm điệu trầm bổng của bản nhạc núi rừng.

Sau hơn ba giờ băng rừng vượt suối, cuối cùng thác Giót hùng vĩ cũng hiện ra trước mắt. Dòng thác cao ngất như dải lụa phấp phới bay trong gió. Hết lớp nước này đến lớp nước khác chạm vào đỉnh đá bắn ra hàng tỉ bọt nước mát lạnh bao trùm không gian.

< Thác Giót.

Ngắm lên dòng thác hùng vĩ mát lạnh còn thấy những lớp đá phủ rêu xanh mượt. Không khí trong lành, man mát sẽ tiêu tan những mệt mỏi, âu lo sau chặng đường bách bộ. Khách ngồi trước bậc đá phủ rêu vàng có thể liên tưởng đến việc ngồi trong căn phòng có máy lạnh, không gì tuyệt bằng.

Vậy nhưng nếu lên đến thác Giót rồi mà không đến đồng cỏ xanh thì kể như chưa đến đây! Vậy là lại balô, máy ảnh trên vai, khách tiếp tục hành trình. Con đường rừng 2,5km băng qua những bụi rậm, những rừng tre xanh mướt, mỏm đá phủ đầy rêu phong. Gần hai giờ loanh quanh trong rừng, đã có lúc bị lạc đường nhưng rồi mọi sự tốt đẹp.

Cảm giác choáng ngợp khi trước mắt là một đồng cỏ rộng thênh thang điểm xuyết những cánh hoa tím ngát và những hòn đá tảng hình thù kỳ lạ như con rùa, quả trứng, hình người ôm ấp. Đây chính là đỉnh núi Phật Sơn cao gần 1.000m so với mực nước biển. Những bãi cỏ xanh mướt lung linh trong nắng, gió mùa thu tuyệt diệu. Dân địa phương gọi đây là Sân Trời hay Lái Cỏ. Cảnh sắc nơi đây làm cho bất kỳ ai một lần đến cũng phải xao xuyến.

Đặc biệt trên những tảng đá nằm bẹp dưới đất, từ các khe tiết ra thứ nước trong vắt, nhìn từ xa có ảo giác như một dòng suối đang tuôn chảy giữa thảo nguyên, cảnh vật cứ nửa hư nửa thực...

Gợi ý:

Từ Hà Nội, khách có thể về TP Bắc Giang theo quốc lộ 1A rồi rẽ vào quốc lộ 31 đến thị trấn Đồi Ngô - Lục Nam gần 100km. Từ thị trấn Đồi Ngô qua cầu Lục Nam, đi thác Thùm Thùm rồi men theo con đường 293 gần 40km sẽ đến suối nước vàng chinh phục đỉnh Phật Sơn. Đây là cung đường ngắn nhất. Xe cần được bảo dưỡng trước hành trình và mang theo dụng cụ sửa chữa cần thiết.

Để khám phá và chinh phục con suối từ phía hạ nguồn lên miền thượng mất quá nửa ngày, sau khi băng qua gần 20 thác ghềnh lớn nhỏ, một số thác đẹp như thác Anh Vũ, thác Mây, Thác Giót, Thác Nước Vàng...

Thác nào cũng đẹp, cũng hấp dẫn và lạ mắt, phía dưới mỗi thác đều có những bồn tắm thiên tạo có thể chứa đến vài chục người, là nơi để bạn có thể thỏa sức vùng vẫy, giải nhiệt cùng dòng nước mát lạnh từ trên cao dội lên cơ thể.

Sau khi đã chinh phục thác Giót, đỉnh Phật Sơn, mọi người nên chọn cách đi về theo con đường bêtông chạy từ trung tâm xã Lục Sơn đến thị trấn Chũ (Lục Ngạn) rồi về TP Bắc Giang theo quốc lộ 31, tránh đi lại con đường 293 nhiều bất trắc. Hoặc chạy theo con đường nhựa về thị trấn Đông Triều - Quảng Ninh, rồi ngược quốc lộ 18 qua Bắc Ninh về Hà Nội.

Korean Air! - Tổng hợp từ Dulichbacgiang, TTO và nhiều nguồn ảnh khác