Hiển thị các bài đăng có nhãn Chuyến đi kỳ thú. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chuyến đi kỳ thú. Hiển thị tất cả bài đăng
Cách thành phố Lào Cai hơn 80km, Ngãi Thầu là xã biên giới của huyện Bát Xát, nằm trên cao chót vót và là một trong những điểm đón mây trời đẹp nhất ở Lào Cai.

< Đường đi Ngãi Thầu.

Cách thành phố Lào Cai khoảng 80km, đường về xã Ngãi Thầu là đường cấp phối, khá quanh co và đá lởm chởm, vì thế nếu lên đỉnh Ngãi Thầu bằng ôtô thì phải là xe có gầm cao để vượt qua những ngầm (chỗ những con suối chảy ngang đường đi) trên đường.

Theo đường tỉnh 158, đường về Ngãi Thầu càng lúc càng hẹp dần, liên tục lên cao và quanh co, uốn khúc. Bù lại, du khách qua đây sẽ được thưởng lãm những làng mạc hoang sơ, cuộc sống thật gần với tự nhiên. Chợ phiên Mường Hum nằm trên lộ trình này và đây cũng là điểm dừng chân lý tưởng cho những ai đi về Ngãi Thầu.

Đi hơn 50km đường, xe bắt đầu qua một khu rừng, không khí đột ngột giảm nhanh và cái lạnh ào ạt xô đến. Qua xã Y Tý, Ngãi Thầu đón chúng tôi bằng một bầu trời đặc quánh mây mù. Tầm nhìn của cả nhóm chỉ giới hạn trong 5m trước mặt, chúng tôi vừa đi vừa dò được vì nếu có xe trước mặt hoặc có xe đi ngược chiều quá 5m sẽ rất khó nhận ra.

Chỉ một tài xế điều khiển xe nhưng đến 12 con mắt nhìn đường. “Phía trước có người. Có xe máy. Có chó…”, những lời nhắc chừng không bao giờ thừa vì không ít lần trong đám mây mù đặc quánh bỗng xuất hiện vài chú gà, chó băng qua đường, những chiếc xe máy ngược chiều…

Sau hơn 3 giờ liên tục leo đèo dốc, trung tâm xã Ngãi Thầu hiện ra giữa mây mù chỉ lèo tèo vài ngôi nhà và một trung tâm y tế vắng ngắt. Trong cái lạnh cắt da, những em bé gái lấm lem đang rửa mặt trong suối nước trong vắt bên đường, những em bé trai đang cho trâu gặm cỏ bên đường…, như những “tiên đồng” trong trang phục người Hà Nhì, má lúc nào cũng ửng hồng tò mò nhìn theo những người khách lạ.

Suốt mấy chục kilômet đường qua xã Ngãi Thầu, chúng tôi luôn trầm mình trong mây mù, chúng tôi cứ như đang ở trên mây, đang ở thiên đường, phiêu diêu cùng những đám mây bồng bềnh. Mây và sương vẫn càng lúc càng dày hơn, vừa lần đường chúng tôi vừa bồng bềnh cảm giác trong mây, lâng lâng, nhè nhẹ.

Tôi không biết trong truyện Tây Du ký, chàng khỉ tinh nghịch Tôn Ngộ Không dạo bước trên mây thế nào, riêng tôi thì “phê” với chính cái cảm giác bồng bềnh trong mây, thích với những làn sương theo gió ùa vào mặt và cái mờ mờ ảo ảo của khung cảnh trên đỉnh Ngãi Thầu.

Theo lời bác tài xế, vào những ngày nắng đẹp, có ánh mặt trời, đứng ở bất kỳ khu vực nào trên Ngãi Thầu cũng có thể nhìn bao quát suốt cả thung lũng phía dưới. Núi trùng điệp, những con sông giờ chỉ thấy bé như sợi mì chảy uốn lượn, những mái nhà nhỏ thấp thoáng trong những cánh đồng xanh bạt ngàn, “đẹp không thể tả”. Lúc ấy chúng tôi ước gì những người bạn miền Nam gửi cho mình một ít nắng, một chút ánh mặt trời của phương Nam để thỏa cái nhìn của tầm mắt.

“Chạy thêm gần một giờ nữa, “cầu ước được thấy”, nắng lung linh xuyên qua mây mù, trên đầu chúng tôi là mây, cả nhóm trở nên bé xíu trên con đường nhỏ nằm vắt vẻo giữa một bên là núi, một bên là vực và dưới chân là một thung lũng xanh bạt ngàn xa tít tắp với những thửa ruộng bậc thang óng ánh trong nắng chiều, những con suối nhỏ uốn quanh trước khi cùng hòa mình vào dòng sông Hồng… “Tuyệt vời! “Tuyệt vời! Tuyệt vời” - tất cả chúng tôi đều thốt lên.

Xe vẫn liên tục xuống dốc và khoảng xanh bạt ngàn vẫn mở đều, mở đều, những dòng suối ở dưới thung lũng vẫn bám chúng tôi. Cả vùng thung lũng phía dưới như cô gái xuân thì phơi sắc xuân. Còn gì hạnh phúc bằng khi vừa được dạo trong mây, vừa được ngắm nhìn một góc Tây Bắc ở nơi đỉnh cao vời vợi này?

Qua Ngãi Thầu, xe vẫn bon bon đổ xuôi dốc. Bỗng có tiếng nhạc vui nhộn giữa trời thanh vắng. Ở đâu ra tiếng nhạc trên đỉnh núi cao, lại ở ngay đoạn dốc quanh co không một mái nhà?

Ngạc nhiên, dõi mắt tìm, chúng tôi bắt gặp hai cô gái Mông Hoa đang về Ngãi Thầu. Trên tay là chiếc máy cassette to đùng với 5 cuộn băng, chưa kể một cuộn đang cất tiếng hát véo von trong máy. Hai cô chỉ chịu nói chuyện với thành viên nữ duy nhất trong đoàn là tôi bằng những câu trả lời nhát gừng. “Đi Ngãi Thầu đấy!”. “Tên gì hả? Không biết đâu. Mà hỏi làm chi?”… “Hai bạn đi tình yêu phải không?” - tôi hỏi.

Hai cô cười bẽn lẽn nhưng trả lời rất thực lòng: “Ừ đấy!”. “Bao giờ mới tới”. “Tối là tới mà. Nghe hết băng là tới”. “Vậy bao giờ mới về?”. “Thì mai về. Lo gì”. Chỉ kịp chụp vài tấm hình lưu niệm, hai cô bé tạm biệt để tiếp tục về “tình yêu” ở Ngãi Thầu trong tiếng nhạc rộn ràng. Chúng tôi nhìn theo đôi chân của 2 cô gái nhỏ mà lòng đầy lưu luyến…

Korean Air! - Theo Vi thảo (Chuyentrang Tuoitre), internet

Cách thành phố Lào Cai hơn 80km, Ngãi Thầu là xã biên giới của huyện Bát Xát, nằm trên cao chót vót và là một trong những điểm đón mây trời đẹp nhất ở Lào Cai.

< Đường đi Ngãi Thầu.

Cách thành phố Lào Cai khoảng 80km, đường về xã Ngãi Thầu là đường cấp phối, khá quanh co và đá lởm chởm, vì thế nếu lên đỉnh Ngãi Thầu bằng ôtô thì phải là xe có gầm cao để vượt qua những ngầm (chỗ những con suối chảy ngang đường đi) trên đường.

Theo đường tỉnh 158, đường về Ngãi Thầu càng lúc càng hẹp dần, liên tục lên cao và quanh co, uốn khúc. Bù lại, du khách qua đây sẽ được thưởng lãm những làng mạc hoang sơ, cuộc sống thật gần với tự nhiên. Chợ phiên Mường Hum nằm trên lộ trình này và đây cũng là điểm dừng chân lý tưởng cho những ai đi về Ngãi Thầu.

Đi hơn 50km đường, xe bắt đầu qua một khu rừng, không khí đột ngột giảm nhanh và cái lạnh ào ạt xô đến. Qua xã Y Tý, Ngãi Thầu đón chúng tôi bằng một bầu trời đặc quánh mây mù. Tầm nhìn của cả nhóm chỉ giới hạn trong 5m trước mặt, chúng tôi vừa đi vừa dò được vì nếu có xe trước mặt hoặc có xe đi ngược chiều quá 5m sẽ rất khó nhận ra.

Chỉ một tài xế điều khiển xe nhưng đến 12 con mắt nhìn đường. “Phía trước có người. Có xe máy. Có chó…”, những lời nhắc chừng không bao giờ thừa vì không ít lần trong đám mây mù đặc quánh bỗng xuất hiện vài chú gà, chó băng qua đường, những chiếc xe máy ngược chiều…

Sau hơn 3 giờ liên tục leo đèo dốc, trung tâm xã Ngãi Thầu hiện ra giữa mây mù chỉ lèo tèo vài ngôi nhà và một trung tâm y tế vắng ngắt. Trong cái lạnh cắt da, những em bé gái lấm lem đang rửa mặt trong suối nước trong vắt bên đường, những em bé trai đang cho trâu gặm cỏ bên đường…, như những “tiên đồng” trong trang phục người Hà Nhì, má lúc nào cũng ửng hồng tò mò nhìn theo những người khách lạ.

Suốt mấy chục kilômet đường qua xã Ngãi Thầu, chúng tôi luôn trầm mình trong mây mù, chúng tôi cứ như đang ở trên mây, đang ở thiên đường, phiêu diêu cùng những đám mây bồng bềnh. Mây và sương vẫn càng lúc càng dày hơn, vừa lần đường chúng tôi vừa bồng bềnh cảm giác trong mây, lâng lâng, nhè nhẹ.

Tôi không biết trong truyện Tây Du ký, chàng khỉ tinh nghịch Tôn Ngộ Không dạo bước trên mây thế nào, riêng tôi thì “phê” với chính cái cảm giác bồng bềnh trong mây, thích với những làn sương theo gió ùa vào mặt và cái mờ mờ ảo ảo của khung cảnh trên đỉnh Ngãi Thầu.

Theo lời bác tài xế, vào những ngày nắng đẹp, có ánh mặt trời, đứng ở bất kỳ khu vực nào trên Ngãi Thầu cũng có thể nhìn bao quát suốt cả thung lũng phía dưới. Núi trùng điệp, những con sông giờ chỉ thấy bé như sợi mì chảy uốn lượn, những mái nhà nhỏ thấp thoáng trong những cánh đồng xanh bạt ngàn, “đẹp không thể tả”. Lúc ấy chúng tôi ước gì những người bạn miền Nam gửi cho mình một ít nắng, một chút ánh mặt trời của phương Nam để thỏa cái nhìn của tầm mắt.

“Chạy thêm gần một giờ nữa, “cầu ước được thấy”, nắng lung linh xuyên qua mây mù, trên đầu chúng tôi là mây, cả nhóm trở nên bé xíu trên con đường nhỏ nằm vắt vẻo giữa một bên là núi, một bên là vực và dưới chân là một thung lũng xanh bạt ngàn xa tít tắp với những thửa ruộng bậc thang óng ánh trong nắng chiều, những con suối nhỏ uốn quanh trước khi cùng hòa mình vào dòng sông Hồng… “Tuyệt vời! “Tuyệt vời! Tuyệt vời” - tất cả chúng tôi đều thốt lên.

Xe vẫn liên tục xuống dốc và khoảng xanh bạt ngàn vẫn mở đều, mở đều, những dòng suối ở dưới thung lũng vẫn bám chúng tôi. Cả vùng thung lũng phía dưới như cô gái xuân thì phơi sắc xuân. Còn gì hạnh phúc bằng khi vừa được dạo trong mây, vừa được ngắm nhìn một góc Tây Bắc ở nơi đỉnh cao vời vợi này?

Qua Ngãi Thầu, xe vẫn bon bon đổ xuôi dốc. Bỗng có tiếng nhạc vui nhộn giữa trời thanh vắng. Ở đâu ra tiếng nhạc trên đỉnh núi cao, lại ở ngay đoạn dốc quanh co không một mái nhà?

Ngạc nhiên, dõi mắt tìm, chúng tôi bắt gặp hai cô gái Mông Hoa đang về Ngãi Thầu. Trên tay là chiếc máy cassette to đùng với 5 cuộn băng, chưa kể một cuộn đang cất tiếng hát véo von trong máy. Hai cô chỉ chịu nói chuyện với thành viên nữ duy nhất trong đoàn là tôi bằng những câu trả lời nhát gừng. “Đi Ngãi Thầu đấy!”. “Tên gì hả? Không biết đâu. Mà hỏi làm chi?”… “Hai bạn đi tình yêu phải không?” - tôi hỏi.

Hai cô cười bẽn lẽn nhưng trả lời rất thực lòng: “Ừ đấy!”. “Bao giờ mới tới”. “Tối là tới mà. Nghe hết băng là tới”. “Vậy bao giờ mới về?”. “Thì mai về. Lo gì”. Chỉ kịp chụp vài tấm hình lưu niệm, hai cô bé tạm biệt để tiếp tục về “tình yêu” ở Ngãi Thầu trong tiếng nhạc rộn ràng. Chúng tôi nhìn theo đôi chân của 2 cô gái nhỏ mà lòng đầy lưu luyến…

Korean Air! - Theo Vi thảo (Chuyentrang Tuoitre), internet

Dãy Hoàng Liên Sơn rộng 30km, chạy dài hơn 180km theo hướng tây bắc - đông nam, giữa hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu đến tận phía tây Yên Bái. Rời Mường Lay, điểm cuối cùng trên quốc lộ 6 dọc cao nguyên Tây Bắc, chúng tôi qua Lai Châu, đi dọc Hoàng Liên Sơn.

Vượt Hoàng Liên Sơn

Ngày thứ tư của hành trình, chúng tôi ghé thăm xã Pú Đao, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. 34km đường thị xã Lai Châu đến ngã ba Bình Lư khá êm ả. Đi thêm khoảng 30km, đèo Ô Qui Hồ, cánh cửa đầu tiên của Hoàng Liên Sơn, hiện ra hùng vĩ hơn bao giờ.

Dài 40km, đèo Ô Qui Hồ (còn gọi là đèo Hoàng Liên) là con đèo dài nhất khu vực Tây Bắc, hơn cả Pha Đin (32km), nằm kéo dài từ đông sang tây trên dãy Hoàng Liên Sơn. Trong nắng chiều vừa đặt chân đến đèo, chúng tôi được tặng ngay một cảnh quan hùng vĩ bởi trùng trùng lớp lớp những dãy núi, chỉ độc nhất con đường quanh co uốn lượn, len lỏi giữa muôn trùng núi và mây.

Thật bất ngờ khi bên kia, đoạn thuộc tỉnh Lào Cai, con đường đèo đang tắm mình trong sương mù của buổi chiều tà, sương giăng mờ cả lối đi.

Lạc bước mây Ngãi Thầu

Cách thành phố Lào Cai hơn 80km, Ngãi Thầu là xã biên giới huyện Bát Xát, nằm trên cao chót vót. Đường về Ngãi Thầu là đường cấp phối, đá lởm chởm, quanh co uốn khúc và có rất nhiều ngầm.

Đường vẫn lên dần. Trời bắt đầu lạnh. Qua Y Tý, Ngãi Thầu đón chúng tôi bằng một bầu trời đặc quánh mây mù, tầm nhìn chỉ giới hạn trong khoảng cách chưa đầy 5m. Sau hơn ba giờ liên tục leo đèo dốc, trung tâm xã Ngãi Thầu hiện ra giữa mây mù chỉ lèo tèo vài ngôi nhà và một trung tâm y tế. Trong cái lạnh cắt da, những em bé gái lấm lem đang rửa mặt trong suối nước trong vắt bên đường, những em bé trai đang cho trâu gặm cỏ bên đường..., như những "tiên đồng" trong trang phục người Hà Nhì má lúc nào cũng ửng hồng.

Mây càng lúc càng dày hơn, vừa lần đường chúng tôi vừa bồng bềnh cảm giác trong mây lâng lâng, nhè nhẹ.

Xe vẫn liên tục xuống dốc. Khoảng xanh bạt ngàn vẫn mở đều, mở đều. Cả vùng thung lũng phía dưới như cô gái xuân thì phơi sắc xuân. Còn gì hạnh phúc bằng khi vừa được dạo trong mây, vừa được ngắm nhìn một góc Tây Bắc ở nơi đỉnh cao vời vợi này!

Nơi sông Hồng chảy vào nước Việt

Qua Ngãi Thầu, đang bon bon đổ dốc bỗng có tiếng nhạc vui nhộn giữa trời thanh vắng. Hai cô gái Mông đang về Ngãi Thầu. Trên tay là chiếc máy cassette to đùng với năm cuộn băng, chưa kể một cuộn đang cất tiếng hát véo von trong máy. "Đi Ngãi Thầu đấy!". Hai bạn đi tìm tình yêu phải không? Hai cô cười bẽn lẽn nhưng trả lời rất thật lòng "Ừ đấy!". Bao giờ tới? "Tối là tới mà. Nghe hết băng là tới". Vậy bao giờ về? "Mai về. Lo gì”.

Hơn 40km xuôi đường dốc quanh co chúng tôi qua xã A Lù, về AMuSung. Đồn biên phòng Lũng Pô đóng trên một đỉnh dốc nhỏ, xuôi theo con dốc này xuống phía dưới là cột mốc số 92. Đứng từ cột mốc này, chúng tôi đã thật gần với điểm giao nhau giữa dòng Lũng Pô và sông Hồng. Và bắt đầu tại ngã ba này, sông Hồng sau khi vượt hàng trăm cây số bắt đầu đổ vào VN.

Men theo sườn đồi, thiếu úy Lê Đình Chinh dắt chúng tôi xuống tận mép nước. Tháo tung giày dép, bỏ hành lý trên bãi đất bồi, cả nhóm nhảy ngay xuống nước để nhúng mình trong dòng sông Hồng mát rượi. Đứng tại ngã ba sông, phía bên trái là dòng Lũng Pô hiền hòa chảy giữa hai ngọn núi, trước mặt là nơi thượng nguồn sông Hồng thuộc địa phận Trung Quốc và hướng còn lại là dòng sông Hồng cuồn cuộn phù sa về nước Việt.

Lại vượt Hoàng Liên Sơn

Ngày thứ tám, ngày cuối của hành trình, chúng tôi từ thị trấn Bắc Hà (Lào Cai) theo quốc lộ 70 và tỉnh lộ 279 tiếp tục phần đoạn cuối dãy Hoàng Liên Sơn. Đèo Khau Cọ đón chúng tôi về Yên Bái, đoạn đường cuối của Hoàng Liên Sơn. 30km đèo quanh co uốn lượn vẫn là mây núi trập trùng, men theo một bên núi là dòng Nậm Chăn. Đèo Khau Cọ như một người anh thứ ít nói nhẹ nhàng đón khách.

Theo quốc lộ 32, chúng tôi qua Khau Cọ, Than Uyên, huyện Mù Căng Chải, xứ sở của những thửa ruộng bậc thang đẹp như tranh vẽ, chẳng khác nào cô gái duyên dáng cho chúng tôi ngắm nhìn trước khi "về đích": vượt đèo Khau Phạ để tạm biệt Hoàng Liên Sơn...

Theo Vi Thảo (TTO), ảnh internet

Dãy Hoàng Liên Sơn rộng 30km, chạy dài hơn 180km theo hướng tây bắc - đông nam, giữa hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu đến tận phía tây Yên Bái. Rời Mường Lay, điểm cuối cùng trên quốc lộ 6 dọc cao nguyên Tây Bắc, chúng tôi qua Lai Châu, đi dọc Hoàng Liên Sơn.

Vượt Hoàng Liên Sơn

Ngày thứ tư của hành trình, chúng tôi ghé thăm xã Pú Đao, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. 34km đường thị xã Lai Châu đến ngã ba Bình Lư khá êm ả. Đi thêm khoảng 30km, đèo Ô Qui Hồ, cánh cửa đầu tiên của Hoàng Liên Sơn, hiện ra hùng vĩ hơn bao giờ.

Dài 40km, đèo Ô Qui Hồ (còn gọi là đèo Hoàng Liên) là con đèo dài nhất khu vực Tây Bắc, hơn cả Pha Đin (32km), nằm kéo dài từ đông sang tây trên dãy Hoàng Liên Sơn. Trong nắng chiều vừa đặt chân đến đèo, chúng tôi được tặng ngay một cảnh quan hùng vĩ bởi trùng trùng lớp lớp những dãy núi, chỉ độc nhất con đường quanh co uốn lượn, len lỏi giữa muôn trùng núi và mây.

Thật bất ngờ khi bên kia, đoạn thuộc tỉnh Lào Cai, con đường đèo đang tắm mình trong sương mù của buổi chiều tà, sương giăng mờ cả lối đi.

Lạc bước mây Ngãi Thầu

Cách thành phố Lào Cai hơn 80km, Ngãi Thầu là xã biên giới huyện Bát Xát, nằm trên cao chót vót. Đường về Ngãi Thầu là đường cấp phối, đá lởm chởm, quanh co uốn khúc và có rất nhiều ngầm.

Đường vẫn lên dần. Trời bắt đầu lạnh. Qua Y Tý, Ngãi Thầu đón chúng tôi bằng một bầu trời đặc quánh mây mù, tầm nhìn chỉ giới hạn trong khoảng cách chưa đầy 5m. Sau hơn ba giờ liên tục leo đèo dốc, trung tâm xã Ngãi Thầu hiện ra giữa mây mù chỉ lèo tèo vài ngôi nhà và một trung tâm y tế. Trong cái lạnh cắt da, những em bé gái lấm lem đang rửa mặt trong suối nước trong vắt bên đường, những em bé trai đang cho trâu gặm cỏ bên đường..., như những "tiên đồng" trong trang phục người Hà Nhì má lúc nào cũng ửng hồng.

Mây càng lúc càng dày hơn, vừa lần đường chúng tôi vừa bồng bềnh cảm giác trong mây lâng lâng, nhè nhẹ.

Xe vẫn liên tục xuống dốc. Khoảng xanh bạt ngàn vẫn mở đều, mở đều. Cả vùng thung lũng phía dưới như cô gái xuân thì phơi sắc xuân. Còn gì hạnh phúc bằng khi vừa được dạo trong mây, vừa được ngắm nhìn một góc Tây Bắc ở nơi đỉnh cao vời vợi này!

Nơi sông Hồng chảy vào nước Việt

Qua Ngãi Thầu, đang bon bon đổ dốc bỗng có tiếng nhạc vui nhộn giữa trời thanh vắng. Hai cô gái Mông đang về Ngãi Thầu. Trên tay là chiếc máy cassette to đùng với năm cuộn băng, chưa kể một cuộn đang cất tiếng hát véo von trong máy. "Đi Ngãi Thầu đấy!". Hai bạn đi tìm tình yêu phải không? Hai cô cười bẽn lẽn nhưng trả lời rất thật lòng "Ừ đấy!". Bao giờ tới? "Tối là tới mà. Nghe hết băng là tới". Vậy bao giờ về? "Mai về. Lo gì”.

Hơn 40km xuôi đường dốc quanh co chúng tôi qua xã A Lù, về AMuSung. Đồn biên phòng Lũng Pô đóng trên một đỉnh dốc nhỏ, xuôi theo con dốc này xuống phía dưới là cột mốc số 92. Đứng từ cột mốc này, chúng tôi đã thật gần với điểm giao nhau giữa dòng Lũng Pô và sông Hồng. Và bắt đầu tại ngã ba này, sông Hồng sau khi vượt hàng trăm cây số bắt đầu đổ vào VN.

Men theo sườn đồi, thiếu úy Lê Đình Chinh dắt chúng tôi xuống tận mép nước. Tháo tung giày dép, bỏ hành lý trên bãi đất bồi, cả nhóm nhảy ngay xuống nước để nhúng mình trong dòng sông Hồng mát rượi. Đứng tại ngã ba sông, phía bên trái là dòng Lũng Pô hiền hòa chảy giữa hai ngọn núi, trước mặt là nơi thượng nguồn sông Hồng thuộc địa phận Trung Quốc và hướng còn lại là dòng sông Hồng cuồn cuộn phù sa về nước Việt.

Lại vượt Hoàng Liên Sơn

Ngày thứ tám, ngày cuối của hành trình, chúng tôi từ thị trấn Bắc Hà (Lào Cai) theo quốc lộ 70 và tỉnh lộ 279 tiếp tục phần đoạn cuối dãy Hoàng Liên Sơn. Đèo Khau Cọ đón chúng tôi về Yên Bái, đoạn đường cuối của Hoàng Liên Sơn. 30km đèo quanh co uốn lượn vẫn là mây núi trập trùng, men theo một bên núi là dòng Nậm Chăn. Đèo Khau Cọ như một người anh thứ ít nói nhẹ nhàng đón khách.

Theo quốc lộ 32, chúng tôi qua Khau Cọ, Than Uyên, huyện Mù Căng Chải, xứ sở của những thửa ruộng bậc thang đẹp như tranh vẽ, chẳng khác nào cô gái duyên dáng cho chúng tôi ngắm nhìn trước khi "về đích": vượt đèo Khau Phạ để tạm biệt Hoàng Liên Sơn...

Theo Vi Thảo (TTO), ảnh internet

Biết chúng tôi có ý định thực hiện một chuyến “phượt” đến trung tâm bảo tồn thiên nhiên Tà Kóu (huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận), một người bạn đang công tác tại thành phố Phan Thiết khuyên tôi nên dành một chút thời gian ghé qua một vùng đất hoang sơ mang tên Bưng Thị. 

Bị hấp dẫn bởi một vài thông tin mà người bạn cung cấp, tôi quyết định dùng xe máy “phóng” thẳng một mạch đến nơi. Không phụ lòng mong mỏi, Bưng Thị đã đón tiếp chúng tôi bằng vô số điều thú vị…
Mặc dù đang là giờ nghỉ trưa nhưng anh Võ Thanh Liêm - người có gần 20 năm gắn bó với khu bảo tồn vẫn niềm nở đón tiếp chúng tôi. Tranh thủ lúc nghỉ ngơi, anh Liêm sơ lược “lý lịch” về “ngôi nhà xanh” của mình.

Như đoán trước được thắc mắc của khách, đến đoạn xưng danh Tà Kóu anh dừng lại khá lâu để giải thích. Anh Liêm cho biết, theo tài liệu còn lưu giữ được thì cái tên Tà Kóu có từ thời Pháp thuộc. Một số nghiên cứu cho thấy, tên gọi này xuất nguồn từ ngôn ngữ của đồng bào dân tộc Chăm. Theo đó, từ Tà có nghĩa là núi, Kóu có nghĩa là già, cũ… cụm nguyên của từ này có nghĩa là “Núi Già”. Ngày nay, để tiện cho việc quảng bá đến công chúng, những người làm công tác du lịch đã “Việt hóa” nó thành Tà Cú cho dễ nhớ.

Đường từ trụ sở trung tâm bảo tồn vào Bưng Thị không xa lắm, chỉ trên dưới 7km đường rừng nhưng rất khó đi. Xe vừa chạm bánh vào con đường rừng đầy cát trắng, anh Liêm dừng lại báo cho tôi biết chúng tôi sắp sửa chinh phục đường… dây thép! So với Quốc lộ 1A con đường này “già” hơn vài trăm tuổi.

Mặc dù đã được hướng dẫn khá kỹ cách chạy xe trên đường đầy cát, song do chưa có kinh nghiệm nên không ít lần tôi bị bỏ lại phía sau khá xa. Một mình giữa rừng, tôi rợn người khi chợt nhớ đến những câu chuyện ly kỳ mà mình đã nghe trước đó.

Anh Xuân, một người mà tôi gặp ở thị trấn Hàm Minh cho biết, trước ngày đất nước thống nhất, khu vực núi Tà Kóu có rất nhiều hổ. Do cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng nên hồi ấy chuyện “xung đột” giữa hổ và người diễn ra khá thường xuyên. Trong phần lớn những cuộc giao chiến, con người luôn là kẻ thua cuộc và không ít phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình.

< Bưng Thị phong phú thực vật miền nhiệt đới.

Sau gần một tiếng đồng hồ cắt rừng vượt cát, cuối cùng thì vùng đất hoang sơ Bưng Thị cũng hiện ra trước mắt. Vì đang là mùa khô nên phần lớn diện tích vùng Bưng Thị bị bao phủ bởi một màu xám bạc của những trảng cỏ khô. Xen lẫn vào đó là một vài tán cây bụi đầy gai nhọn hoắc.

Bưng Thị được hình thành trên nền đất phù sa cổ, khí hậu tương đối khắc nghiệt với lượng mưa trung bình hàng năm chỉ trên dưới 100ml. Đó là lý do mà chỉ có cỏ và loài găng gai là có khả năng sinh trưởng tốt. Theo nhiều người tên gọi Bưng Thị xuất phát từ việc vùng bưng này có nhiều cây thị hoang sinh sống. Hiện vẫn còn một số cá thể loài này sinh trưởng quanh vùng đệm nhưng số lượng không còn nhiều như trước.

Nếu đi qua vùng trảng cỏ Bưng Thị vào dịp sáng sớm hoặc chiều tối, du khách sẽ có dịp nhìn thấy những gia đình chim công, gà lôi hồng tía - hai loài chim đặc hữu của vùng này nhởn nhơ tìm mồi. Bưng Thị có một quần thể khá đa dạng với nhiều loài động vật quý hiếm. Hệ động vật ít nhất 30 loài thú, 100 loài chim, 54 loài lưỡng cư và bò sát, 174 loài côn trùng... Hệ thực vật có 751 loài và có ít nhất 15 loài thực vật quý hiếm.

Nếu như trên cạn là cát trắng nóng bỏng đặc trưng sa mạc thì chỉ cách đấy vài bước chân nó là thế giới của vô số loài động, thực vật miền nhiệt đới. Chỉ cho tôi một vùng đầm lầy bị bao phủ bởi cỏ dại và tràm nước (loại cây đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười) trước mặt. Để đo độ sâu mực nước vùng đầm lầy Bưng Thị là điều không thể. Bởi chưa từng có ai vượt qua được những bãi lầy dày hàng chục mét để vào sâu bên trong.

< Khu vực đầm lầy.

Do nằm trong khu vực vành đai núi lửa nên nước ở Bưng Thị chứa khá nhiều khoáng chất. Chưa có một nghiên cứu chính thức, song nhiều người cho rằng chính nhờ nguồn nước này mà quả thanh long Hàm Thuận Nam ngon ngọt, trở thành đặc sản nổi tiếng khắp cả nước.

Sau gần ba tiếng đồng hồ lang thang quanh Bưng Thị, trước khi quay trở ra, chúng tôi “tự thưởng” cho mình một chầu trứng luộc bằng chính dòng nước suối nóng bỏng được lấy trực tiếp từ lòng đất. Được các nhà khảo sát địa chất khoan thăm dò vào năm 1979, dòng nước suối này có nhiệt độ khoảng 800C, đủ khả năng làm chín một quả trứng trong vòng 20 phút.

Theo Nguyễn Minh (Phunuonline)

Biết chúng tôi có ý định thực hiện một chuyến “phượt” đến trung tâm bảo tồn thiên nhiên Tà Kóu (huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận), một người bạn đang công tác tại thành phố Phan Thiết khuyên tôi nên dành một chút thời gian ghé qua một vùng đất hoang sơ mang tên Bưng Thị. 

Bị hấp dẫn bởi một vài thông tin mà người bạn cung cấp, tôi quyết định dùng xe máy “phóng” thẳng một mạch đến nơi. Không phụ lòng mong mỏi, Bưng Thị đã đón tiếp chúng tôi bằng vô số điều thú vị…
Mặc dù đang là giờ nghỉ trưa nhưng anh Võ Thanh Liêm - người có gần 20 năm gắn bó với khu bảo tồn vẫn niềm nở đón tiếp chúng tôi. Tranh thủ lúc nghỉ ngơi, anh Liêm sơ lược “lý lịch” về “ngôi nhà xanh” của mình.

Như đoán trước được thắc mắc của khách, đến đoạn xưng danh Tà Kóu anh dừng lại khá lâu để giải thích. Anh Liêm cho biết, theo tài liệu còn lưu giữ được thì cái tên Tà Kóu có từ thời Pháp thuộc. Một số nghiên cứu cho thấy, tên gọi này xuất nguồn từ ngôn ngữ của đồng bào dân tộc Chăm. Theo đó, từ Tà có nghĩa là núi, Kóu có nghĩa là già, cũ… cụm nguyên của từ này có nghĩa là “Núi Già”. Ngày nay, để tiện cho việc quảng bá đến công chúng, những người làm công tác du lịch đã “Việt hóa” nó thành Tà Cú cho dễ nhớ.

Đường từ trụ sở trung tâm bảo tồn vào Bưng Thị không xa lắm, chỉ trên dưới 7km đường rừng nhưng rất khó đi. Xe vừa chạm bánh vào con đường rừng đầy cát trắng, anh Liêm dừng lại báo cho tôi biết chúng tôi sắp sửa chinh phục đường… dây thép! So với Quốc lộ 1A con đường này “già” hơn vài trăm tuổi.

Mặc dù đã được hướng dẫn khá kỹ cách chạy xe trên đường đầy cát, song do chưa có kinh nghiệm nên không ít lần tôi bị bỏ lại phía sau khá xa. Một mình giữa rừng, tôi rợn người khi chợt nhớ đến những câu chuyện ly kỳ mà mình đã nghe trước đó.

Anh Xuân, một người mà tôi gặp ở thị trấn Hàm Minh cho biết, trước ngày đất nước thống nhất, khu vực núi Tà Kóu có rất nhiều hổ. Do cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng nên hồi ấy chuyện “xung đột” giữa hổ và người diễn ra khá thường xuyên. Trong phần lớn những cuộc giao chiến, con người luôn là kẻ thua cuộc và không ít phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình.

< Bưng Thị phong phú thực vật miền nhiệt đới.

Sau gần một tiếng đồng hồ cắt rừng vượt cát, cuối cùng thì vùng đất hoang sơ Bưng Thị cũng hiện ra trước mắt. Vì đang là mùa khô nên phần lớn diện tích vùng Bưng Thị bị bao phủ bởi một màu xám bạc của những trảng cỏ khô. Xen lẫn vào đó là một vài tán cây bụi đầy gai nhọn hoắc.

Bưng Thị được hình thành trên nền đất phù sa cổ, khí hậu tương đối khắc nghiệt với lượng mưa trung bình hàng năm chỉ trên dưới 100ml. Đó là lý do mà chỉ có cỏ và loài găng gai là có khả năng sinh trưởng tốt. Theo nhiều người tên gọi Bưng Thị xuất phát từ việc vùng bưng này có nhiều cây thị hoang sinh sống. Hiện vẫn còn một số cá thể loài này sinh trưởng quanh vùng đệm nhưng số lượng không còn nhiều như trước.

Nếu đi qua vùng trảng cỏ Bưng Thị vào dịp sáng sớm hoặc chiều tối, du khách sẽ có dịp nhìn thấy những gia đình chim công, gà lôi hồng tía - hai loài chim đặc hữu của vùng này nhởn nhơ tìm mồi. Bưng Thị có một quần thể khá đa dạng với nhiều loài động vật quý hiếm. Hệ động vật ít nhất 30 loài thú, 100 loài chim, 54 loài lưỡng cư và bò sát, 174 loài côn trùng... Hệ thực vật có 751 loài và có ít nhất 15 loài thực vật quý hiếm.

Nếu như trên cạn là cát trắng nóng bỏng đặc trưng sa mạc thì chỉ cách đấy vài bước chân nó là thế giới của vô số loài động, thực vật miền nhiệt đới. Chỉ cho tôi một vùng đầm lầy bị bao phủ bởi cỏ dại và tràm nước (loại cây đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười) trước mặt. Để đo độ sâu mực nước vùng đầm lầy Bưng Thị là điều không thể. Bởi chưa từng có ai vượt qua được những bãi lầy dày hàng chục mét để vào sâu bên trong.

< Khu vực đầm lầy.

Do nằm trong khu vực vành đai núi lửa nên nước ở Bưng Thị chứa khá nhiều khoáng chất. Chưa có một nghiên cứu chính thức, song nhiều người cho rằng chính nhờ nguồn nước này mà quả thanh long Hàm Thuận Nam ngon ngọt, trở thành đặc sản nổi tiếng khắp cả nước.

Sau gần ba tiếng đồng hồ lang thang quanh Bưng Thị, trước khi quay trở ra, chúng tôi “tự thưởng” cho mình một chầu trứng luộc bằng chính dòng nước suối nóng bỏng được lấy trực tiếp từ lòng đất. Được các nhà khảo sát địa chất khoan thăm dò vào năm 1979, dòng nước suối này có nhiệt độ khoảng 800C, đủ khả năng làm chín một quả trứng trong vòng 20 phút.

Theo Nguyễn Minh (Phunuonline)

(Tiếp theo)
Những ngày lang thang ở bản Thín (Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), tôi nhận thấy rằng, đồng bào trong bản không ưa loài trăn, vì trăn xơi quá nhiều gà, vịt, lợn, dê của đồng bào.

Bản Thín là thung lũng bị kẹp giữa cao nguyên Mộc Châu và dãy Pha Luông huyền thoại. Mộc Châu quanh năm chìm trong mây mù, mùa Đông càng lạnh giá. Dãy Pha Luông cao vời vợi cũng lạnh cóng, trong khi bản Thín luôn ấm áp vào mùa Đông, nên trăn tụ cả về đây.
Xung quanh bản Thín có nhiều quả núi thấp, toàn núi đá, cây cối rậm rạp, hang hốc khắp nơi, là lãnh địa ẩn náu của loài trăn. Đồng bào Thái và Mường ở vùng đất này vừa kính trọng, vừa sợ, lại vừa ghét loài trăn.

Trăn cứu dân bản


< Điểm trưởng bản Thín.

Đồng bào kính trọng trăn, vì trong bản lưu truyền một huyền thoại vừa đẹp, vừa bí ẩn về loài trăn cứu người. Trưởng bản Vì Văn Đoài cho biết, độ chục năm trước, khi con đường vào Xuân Nha còn là đường mòn, bản Thín còn chìm trong đại ngàn hoang thẳm. Chỉ bước chân ra khỏi bản, là đã lạc vào rừng già. Thú hoang, trăn rắn quanh bản rất nhiều.

Bản Thín có 74 hộ dân, với hai dân tộc là Thái và Mường sinh sống. Người Mường mới di cư đến đây từ những năm 70 thế kỷ trước, nhưng người Thái đã định cư ở đất này từ lâu. Người già trong bản, hiểu nhiều truyền thuyết là cụ Vì Văn Đứng. Đứng bên mép ngôi nhà sàn, chỉ tay về phía dãy Pha Luông huyền thoại, cụ Đứng bảo, bản thân cái tên núi Pha Luông đã mang nhiều bí ẩn. Ngay dưới chân núi Pha Luông có núi Phạ Hằng, cách bản Thín mấy con dao quăng. Đây là quả núi rậm rạp cây cối, có vô số hang hốc, là vương quốc của loài trăn.


< Núi Phạ Hằng um tùm cây cối.

Cụ Đứng là người vinh dự được tham quan động Phong Nha trong Quảng Bình. Cụ bảo: “Dãy núi Pha Luông ở bản mình có vô số hang động đẹp không kém gì ở Phong Nha đâu. Cả đời mình, mấy chục năm lội rừng, trèo hang, nhưng vẫn chưa đi hết hang động núi Hằng, chứ đừng nói hàng ngàn hang động trên Pha Luông”. Từ người già đến con trẻ bản Thín đều tôn trọng núi Hằng, coi quả núi đó là chốn linh thiêng tuyệt đối, không ai dám xâm phạm. Đời các cụ đã thờ quả núi ấy, đời con cháu ra sức bảo vệ, nên núi Hằng mãi xanh tươi, cây cối cổ thụ rợp bóng.

Quả núi ấy có vô số hang động, hang nọ thông hang kia, đi cả thế kỷ không hết, nhưng hang đẹp nhất, thiêng nhất, chính là hang Hằng, lấy tên theo quả núi. Vì hang có nhiều trăn, nên lớp trẻ gọi đó là hang trăn. Đôi khi, gọi tên hang Hằng, thì lớp trẻ lại không biết đến.


< Đường vào núi Hằng.

Truyền thuyết kể rằng, thời trái đất còn hoang sơ, con người sống co cụm thành những bản nhỏ giữa rừng hoang, thì vùng đất này nổi tiếng nhiều thú dữ. Ban ngày, đồng bào kéo nhau vào rừng săn bắn, hái lượm, đêm chui vào những căn lều nhỏ, đốt lửa xua thú dữ. Trong bộ tộc có một tù trưởng là người đứng đầu. Tù trưởng là người giỏi săn bắn nhất bộc tộc.

Một hôm, thú dữ từ khắp nơi kéo bầy về khu vực bản Thín để tìm cách ăn thịt con người. Hổ, báo, chó sói hàng ngàn con gầm ghè khắp rừng hoang, vây kín bản nhỏ. Chúng chỉ chờ chực con người sơ hở là ăn thịt. Mặc dù trai tráng trong bản đều là những thợ săn giỏi, nhưng người ít, mà thú hoang thì nhiều, nên con người dần đuối sức, có nguy cơ trở thành mồi cho thú dữ.

Trước mặt dân bản là hàng vạn con thú dữ, sau lưng dân bản là vách đá dựng đứng, không có cách nào vượt qua được. Tiếng kêu khóc não nề cả rừng hoang. Giữa đêm tối mịt mùng và tuyệt vọng, bỗng một luồng ánh sáng từ trên trời soi xuống làm sáng bừng cả rừng hoang. Trong ánh sáng kỳ ảo đó, có một con trăn khổng lồ, thân to như cây nghiến, dài vắt từ thung nọ sang thung kia đang trườn đi. Con trăn khổng lồ đi đến đâu, những dải rừng dạt ra đến đó.

< Đường vào hang Hằng.

Nghĩ rằng Giàng đã cử con trăn xuống cứu dân bản, nên đồng bào đi theo con trăn. Vách núi dựng đứng bỗng nứt ra thành hang động. Con trăn chui vào hang và biến mất. Vị tù trưởng đã dẫn đồng bào chui vào hang. Miệng hang nhỏ, nhưng bụng hang rất lớn, lại có vô số ngóc ngách dẫn đi khắp nơi. Điều kỳ lạ là trong hang đó có vô số trăn. Bọn trăn khổng lồ vắt mình trên các mỏm đá, quấn quanh nhũ đá. Chúng hiền lành như cục đất, không sợ người, cũng không tấn công người.

Đi đến giữa hang, thì một con sông lớn hiện ra, nước chảy lấp lánh. Dưới lòng sông, trong bụng hang có vô số cá lớn, cá bé. Đồng bào đánh bắt cá và sống thoải mái trong hang động rộng lớn này.

Tấn công vào trong hang không được, con người lại không chịu ra, bầy thú dữ nản chí nên bỏ đi. Lúc đó, bộ tộc mới chuyển ra ngoài. Nhớ ơn cứu mạng của Giàng, nên tù trưởng mới gọi dãy núi này là Phạ Hằng, có nghĩa là trăng. Nhờ có ánh sáng của mặt trăng dẫn đường, cùng với trăn thần, mà mọi người tìm thoát được bầy thú dữ.

Cũng kể từ đó, đồng bào bản Thín coi loài trăn trong hang Hằng, trên núi Hằng là trăn thần. Vậy nên, đồng bào chẳng bao giờ dám trèo lên quả núi đó, chứ đừng nói chuyện vào hang, lên núi bắt trăn. Điều đó lý giải vì sao, từ xưa đến nay, ở núi Hằng có rất nhiều trăn khổng lồ. Các cụ già trong bản hiểu rõ truyền thuyết này thì vừa sợ vừa tôn kính loài trăn. Thậm chí, các cụ gọi là ông trăn, chứ không gọi là con trăn.

Tuy nhiên, thế hệ trẻ thì không hiểu rõ về truyền thuyết đó và cũng không sợ trăn. Núi Hằng là núi cấm, là lãnh địa thiêng, dân bản không dám vào, nhưng hễ trăn bò ra khỏi núi, tìm về bản bắt vật nuôi, là họ tóm sống làm thịt, nấu cao.


< Theo truyền thuyết, dân bản đã được con trăn thần khổng lồ dẫn đường vào hang Hằng trốn bầy thú dữ.

Ngoài ra, người dân ở nơi khác đến, không tin vào truyền thuyết trăn thần, nên họ cũng không sợ. Không ít người vì lòng tham, đã mò vào hang bắt trăn đem bán. Chính vì thế, loài trăn không còn đông đúc trong hang Hằng như xưa nữa.

Huyền thoại thợ săn giết trăn khổng lồ

Tôi đang trò chuyện với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La) thì trưởng bản bỗng lên cơn sốt, rồi kêu mệt. Theo lời anh Đoài, từ hôm tham gia mổ thịt, nấu cao, đánh chén con trăn trộm gà ở nhà bà chị Vì Thị Chuẩn, anh có cảm giác hay mệt, hay ốm.


< Cụ Đứng bảo rằng, những người già bản Thín hiểu rõ về truyền thuyết trăn thần, nên không bao giờ dám bắt trăn ở núi Hằng.

Loài trăn không có độc, bản thân anh Đoài cũng không tin chuyện tâm linh, trăn thần, nhưng nghe nhiều người dọa, anh cũng thấy hơi hãi. Vì vậy, tôi cất lời nhờ anh dẫn vào hang Hằng tìm trăn, anh Đoài nhất định từ chối.

Tuy nhiên, anh Đoài có cậu cháu tên Quang, là thanh niên thông thạo hang Hằng nhất bản Thín này. Trong khi đám bạn sợ trăn thần, rắn độc, sợ sự linh thiêng của núi Hằng, thì Quang không sợ gì cả. Từ nhỏ, Quang đã thám hiểm hang Hằng, thường xuyên bắt cá trong hang về ăn. Quang chui khắp các ngóc ngách, bò giữa bầy trăn mà không khiếp sợ.

Bữa đó, Quang đang lợp mái nhà cho một người dân trong bản. Điều lạ lùng ở bản Thín, đó là, việc làm nhà không phải của người già, của các nghệ nhân, mà là của đám thanh niên. Hễ nhà nào làm nhà, thanh niên cả bản kéo đến làm giúp. Mặc dù đang là nhân công chính dựng ngôi nhà sàn, song khi trưởng bản Đoài gọi, Quang dừng việc đi ngay. Mấy chục nam thanh nữ tú đều thích thú muốn khám phá hang Hằng, nhưng đều sợ hãi không dám theo chúng tôi.

< Trong lòng hang Hằng.

Chúng tôi nai nịt gọn gàng. Đèn pin mỗi người hai chiếc. Quang vác theo một cây gỗ dài tới 7m. Theo Quang, đường vào hang nhiều đoạn dốc đứng, nên phải cắm cây gỗ để có thứ mà bám vào tụt xuống. Đứng ở con dốc vào bản Thín, thấy núi Hằng hiện rõ, um tùm, nằm bên thung lũng, dưới chân dãy Pha Luông. Chúng tôi cứ nhằm con đường mòn cắt ngang thung lũng mà đi.

Quang bảo, từ bé, cậu đã được nghe nhiều cụ già trong bản kể truyền thuyết về trăn thần cứu người, về hang Hằng. Những đứa trẻ khác nghe xong thì sợ hãi, không dám bén mảng đến núi Phạ Hằng, nhưng riêng cậu thì thấy thích thú, muốn khám phá núi Hằng, muốn chui vào hang Hằng, xem có đúng là có nhiều trăn như trong truyền thuyết không.

< Núi Phạ Hằng.

Ông cha Quang kể rằng, người Thái sống ở vùng đất này đã lâu, kể truyền thuyết về hang Hằng hàng đêm bên bếp lửa, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai biết hang Hằng ở chỗ nào, vì chẳng ai dám vào núi Phạ Hằng rậm rạp. Về sau, người Mường di cư từ nơi khác đến bản Thín, dựng nhà, dựng cửa, sống cùng với người Thái. Người Mường rất giỏi săn bắn, và nhiều thợ săn không sợ núi Phạ Hằng.

Trong số những thợ săn đó, có lão Sung. Lão Sung nổi tiếng khắp vùng Mộc Châu vì tài săn bắn. Lão từng giết hàng chục con hổ, vật nhau với gấu giữa rừng. Chưa từng có loài mãnh thú nào sống sót trước mũi tên của lão. Chuyện lão thợ săn thiện xạ tên Sung cứ như huyền thoại, được lớp già kể lại trong những đêm bên bếp lửa, chứ thế hệ trẻ như Quang không còn biết lão Sung là ai nữa.

< Lão Sung là người tìm ra hang Hằng.

Một lần, lão Sung vác nỏ vào rừng, bắn trúng gáy con lợn lòi. Giống lợn rừng cực kỳ khỏe, nên một mũi tên không thể giết ngay được nó. Lão Sung lần theo dấu máu của con lợn rừng. Dù bị thương nặng, song con lợn rừng vẫn lê lết đến tận vách núi Hằng. Nhưng lạ thay, đến chân núi thì dấu máu biến mất. Con lợn to tướng như thế không thể bốc hơi một cách kỳ lạ như vậy.

Lão Sung vạch từng bụi cỏ, hốc cây bên vách núi tìm kiếm, thì phát hiện có một cửa động rất nhỏ, chỉ vừa người chui. Lão Sung chui vào trong động, thì phát hiện vũng máu đọng ngay phía trong động. Như vậy, con lợn lòi trúng tên đã chui vào hang động này. Tuy nhiên, hang tối quá, nên lão Sung phải quay ra.

< Tác giả chui xuống hang Hằng đi tìm trăn.

Lão Sung dùng dao tước mấy miếng gỗ thông đặc quánh tinh dầu rồi châm lửa đốt. Gỗ thông đượm tinh dầu cháy bùng bùng phát sáng cả vùng rộng lớn. Lão Sung cầm bó đuốc tiến vào trong hang. Đi được một đoạn, lão chợt khựng lại, khi trước mặt mình, trên vách đá là một con trăn khổng lồ, thân to bằng cột nhà, màu da loang lổ, chỗ vàng, chỗ đen.

Con trăn khổng lồ đã bóp chết con lợn lòi to tướng, nặng phải trên tạ. Đuôi nó quấn chặt vào mỏm đá trên vách hang, miệng đớp chặt đầu con lợn kéo tuột lên vách đá. Con trăn cuộn thân quấn chặt con lợn, rồi há miệng đớp đầu con lợn. Nó quằn quại một lát, đã nuốt trọn con lợn lòi vào bụng.

Ánh sáng lập lòe và sự có mặt của lão Sung không khiến con trăn khiếp sợ. Là thợ săn lão luyện, nên lão Sung không sợ hãi bỏ chạy. Lão đối mặt trăn rắn nhiều rồi, nhưng trong mơ lão cũng chưa từng gặp một con trăn lớn như thế. Lão muốn giết nó đòi lại con lợn, nhưng chưa chuẩn bị kỹ, lại không có vũ khí, nên lão rời hang đá trở về bản.

< Trăn lột xác trong hang Hằng.

Sau này, tôi gặp lại cụ Vì Văn Đứng, hỏi chuyện về lão Sung, cụ Đứng cũng xác nhận chuyện lão Sung phát hiện hang Hằng là thật. Theo cụ Đứng, hôm lão Sung về bản, kể chuyện chui vào hang, gặp trăn khổng lồ, nhiều người chế nhạo cho rằng lão Sung nhìn gà hóa cuốc, nhưng lão Đứng thì tin là thật. Lúc đó, lão Đứng mới hiểu vì sao trâu, bò, dê của dân bản hễ thả vào rừng là biến mất.

Đã có mấy lần, khi lão Đứng đi săn, đuổi theo bọn nai, hoẵng, khỉ, nhưng chỉ đuổi đến núi Hằng là lão dừng lại. Lão không dám mạo phạm đến quả núi thiêng này. Nhưng điều lạ là, khi bầy thú chạy về phía núi Hằng, thì bỗng có tiếng xào xạc, ào ào, khiến cây cối khu rừng rung lên bần bật. Lão Đứng cũng chỉ nghĩ trong khu rừng bí ẩn đó có loài mãnh thú nào đó, hoặc bầy khỉ nhảy nhót trên cành cây, chứ cũng không dám tin lại có loài trăn khổng lồ như trong huyền thoại.

Bị nhiều người châm chọc, nên lão Sung tức lắm. Lão Sung mài rựa, vót tên, lên rừng lấy nhựa độc tẩm mũi giáo và quyết chí vào núi Hằng tìm con trăn khổng lồ. Lão Sung rủ các thợ săn đi cùng hỗ trợ, nhưng chẳng ai dám đi, dù không ai tin chuyện trăn thần là thật.

Lão Sung một mình khuất dạng sau những tán cây. Mấy chục người dân trong bản chờ ở đầu dốc. Mọi người chờ đến chiều tối, mà chẳng thấy lão ra khỏi rừng. Vợ con bắt đầu kêu khóc. Ai cũng tin lão Sung đã bị con trăn nuốt chửng. Tuy nhiên, nhập nhoạng tối, lão Sung mò ra với khuôn mặt bơ phờ. Lão bảo đã giết hạ con trăn, nhưng chỉ lôi được đuôi nó ra đến miệng hang.

Lúc này, đám trai bản mới mạnh dạn cùng lão kéo đến cửa hang, lôi xác con trăn về bản. Con trăn khổng lồ dài ngót chục mét, nặng phải 150kg. Tất cả các cụ già trong bản kéo đến và ai cũng khẳng định từ bé đến giờ chưa từng gặp con trăn nào lớn như thế. Có người nhìn con trăn thì khiếp sợ vì nghĩ nó là trăn thần, nhưng có người thì hả hê vì trả thù được cho trâu bò, dê lợn nhà mình.

< Các cụ già trong bản thường kể chuyện hang trăn núi Hằng cho lớp trẻ nghe.

Sau lần bắt được con trăn khổng lồ đó, lão Sung như người mất hồn. Lão không đi săn nữa, cũng chẳng tiếp xúc với ai. Lão lầm lì trong nhà. Lão Sung kể với mấy bạn già rằng, từ hôm giết ngu phạ (tiếng Thái là trăn trời), đêm nào lão cũng mơ thấy trăn thần trong truyền thuyết của người Thái quấn lão đến ngộp thở, rồi nuốt chửng lão vào bụng.

Thi thoảng, người dân trong bản vẫn gặp lão Sung mang lễ vào núi Hằng khấn vái. Thời gian sau, lão về với tổ tiên. Chuyện lão chết thế nào không ai biết. Lão đã chết mất chục năm nay.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

(Tiếp theo)
Những ngày lang thang ở bản Thín (Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), tôi nhận thấy rằng, đồng bào trong bản không ưa loài trăn, vì trăn xơi quá nhiều gà, vịt, lợn, dê của đồng bào.

Bản Thín là thung lũng bị kẹp giữa cao nguyên Mộc Châu và dãy Pha Luông huyền thoại. Mộc Châu quanh năm chìm trong mây mù, mùa Đông càng lạnh giá. Dãy Pha Luông cao vời vợi cũng lạnh cóng, trong khi bản Thín luôn ấm áp vào mùa Đông, nên trăn tụ cả về đây.
Xung quanh bản Thín có nhiều quả núi thấp, toàn núi đá, cây cối rậm rạp, hang hốc khắp nơi, là lãnh địa ẩn náu của loài trăn. Đồng bào Thái và Mường ở vùng đất này vừa kính trọng, vừa sợ, lại vừa ghét loài trăn.

Trăn cứu dân bản


< Điểm trưởng bản Thín.

Đồng bào kính trọng trăn, vì trong bản lưu truyền một huyền thoại vừa đẹp, vừa bí ẩn về loài trăn cứu người. Trưởng bản Vì Văn Đoài cho biết, độ chục năm trước, khi con đường vào Xuân Nha còn là đường mòn, bản Thín còn chìm trong đại ngàn hoang thẳm. Chỉ bước chân ra khỏi bản, là đã lạc vào rừng già. Thú hoang, trăn rắn quanh bản rất nhiều.

Bản Thín có 74 hộ dân, với hai dân tộc là Thái và Mường sinh sống. Người Mường mới di cư đến đây từ những năm 70 thế kỷ trước, nhưng người Thái đã định cư ở đất này từ lâu. Người già trong bản, hiểu nhiều truyền thuyết là cụ Vì Văn Đứng. Đứng bên mép ngôi nhà sàn, chỉ tay về phía dãy Pha Luông huyền thoại, cụ Đứng bảo, bản thân cái tên núi Pha Luông đã mang nhiều bí ẩn. Ngay dưới chân núi Pha Luông có núi Phạ Hằng, cách bản Thín mấy con dao quăng. Đây là quả núi rậm rạp cây cối, có vô số hang hốc, là vương quốc của loài trăn.


< Núi Phạ Hằng um tùm cây cối.

Cụ Đứng là người vinh dự được tham quan động Phong Nha trong Quảng Bình. Cụ bảo: “Dãy núi Pha Luông ở bản mình có vô số hang động đẹp không kém gì ở Phong Nha đâu. Cả đời mình, mấy chục năm lội rừng, trèo hang, nhưng vẫn chưa đi hết hang động núi Hằng, chứ đừng nói hàng ngàn hang động trên Pha Luông”. Từ người già đến con trẻ bản Thín đều tôn trọng núi Hằng, coi quả núi đó là chốn linh thiêng tuyệt đối, không ai dám xâm phạm. Đời các cụ đã thờ quả núi ấy, đời con cháu ra sức bảo vệ, nên núi Hằng mãi xanh tươi, cây cối cổ thụ rợp bóng.

Quả núi ấy có vô số hang động, hang nọ thông hang kia, đi cả thế kỷ không hết, nhưng hang đẹp nhất, thiêng nhất, chính là hang Hằng, lấy tên theo quả núi. Vì hang có nhiều trăn, nên lớp trẻ gọi đó là hang trăn. Đôi khi, gọi tên hang Hằng, thì lớp trẻ lại không biết đến.


< Đường vào núi Hằng.

Truyền thuyết kể rằng, thời trái đất còn hoang sơ, con người sống co cụm thành những bản nhỏ giữa rừng hoang, thì vùng đất này nổi tiếng nhiều thú dữ. Ban ngày, đồng bào kéo nhau vào rừng săn bắn, hái lượm, đêm chui vào những căn lều nhỏ, đốt lửa xua thú dữ. Trong bộ tộc có một tù trưởng là người đứng đầu. Tù trưởng là người giỏi săn bắn nhất bộc tộc.

Một hôm, thú dữ từ khắp nơi kéo bầy về khu vực bản Thín để tìm cách ăn thịt con người. Hổ, báo, chó sói hàng ngàn con gầm ghè khắp rừng hoang, vây kín bản nhỏ. Chúng chỉ chờ chực con người sơ hở là ăn thịt. Mặc dù trai tráng trong bản đều là những thợ săn giỏi, nhưng người ít, mà thú hoang thì nhiều, nên con người dần đuối sức, có nguy cơ trở thành mồi cho thú dữ.

Trước mặt dân bản là hàng vạn con thú dữ, sau lưng dân bản là vách đá dựng đứng, không có cách nào vượt qua được. Tiếng kêu khóc não nề cả rừng hoang. Giữa đêm tối mịt mùng và tuyệt vọng, bỗng một luồng ánh sáng từ trên trời soi xuống làm sáng bừng cả rừng hoang. Trong ánh sáng kỳ ảo đó, có một con trăn khổng lồ, thân to như cây nghiến, dài vắt từ thung nọ sang thung kia đang trườn đi. Con trăn khổng lồ đi đến đâu, những dải rừng dạt ra đến đó.

< Đường vào hang Hằng.

Nghĩ rằng Giàng đã cử con trăn xuống cứu dân bản, nên đồng bào đi theo con trăn. Vách núi dựng đứng bỗng nứt ra thành hang động. Con trăn chui vào hang và biến mất. Vị tù trưởng đã dẫn đồng bào chui vào hang. Miệng hang nhỏ, nhưng bụng hang rất lớn, lại có vô số ngóc ngách dẫn đi khắp nơi. Điều kỳ lạ là trong hang đó có vô số trăn. Bọn trăn khổng lồ vắt mình trên các mỏm đá, quấn quanh nhũ đá. Chúng hiền lành như cục đất, không sợ người, cũng không tấn công người.

Đi đến giữa hang, thì một con sông lớn hiện ra, nước chảy lấp lánh. Dưới lòng sông, trong bụng hang có vô số cá lớn, cá bé. Đồng bào đánh bắt cá và sống thoải mái trong hang động rộng lớn này.

Tấn công vào trong hang không được, con người lại không chịu ra, bầy thú dữ nản chí nên bỏ đi. Lúc đó, bộ tộc mới chuyển ra ngoài. Nhớ ơn cứu mạng của Giàng, nên tù trưởng mới gọi dãy núi này là Phạ Hằng, có nghĩa là trăng. Nhờ có ánh sáng của mặt trăng dẫn đường, cùng với trăn thần, mà mọi người tìm thoát được bầy thú dữ.

Cũng kể từ đó, đồng bào bản Thín coi loài trăn trong hang Hằng, trên núi Hằng là trăn thần. Vậy nên, đồng bào chẳng bao giờ dám trèo lên quả núi đó, chứ đừng nói chuyện vào hang, lên núi bắt trăn. Điều đó lý giải vì sao, từ xưa đến nay, ở núi Hằng có rất nhiều trăn khổng lồ. Các cụ già trong bản hiểu rõ truyền thuyết này thì vừa sợ vừa tôn kính loài trăn. Thậm chí, các cụ gọi là ông trăn, chứ không gọi là con trăn.

Tuy nhiên, thế hệ trẻ thì không hiểu rõ về truyền thuyết đó và cũng không sợ trăn. Núi Hằng là núi cấm, là lãnh địa thiêng, dân bản không dám vào, nhưng hễ trăn bò ra khỏi núi, tìm về bản bắt vật nuôi, là họ tóm sống làm thịt, nấu cao.


< Theo truyền thuyết, dân bản đã được con trăn thần khổng lồ dẫn đường vào hang Hằng trốn bầy thú dữ.

Ngoài ra, người dân ở nơi khác đến, không tin vào truyền thuyết trăn thần, nên họ cũng không sợ. Không ít người vì lòng tham, đã mò vào hang bắt trăn đem bán. Chính vì thế, loài trăn không còn đông đúc trong hang Hằng như xưa nữa.

Huyền thoại thợ săn giết trăn khổng lồ

Tôi đang trò chuyện với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La) thì trưởng bản bỗng lên cơn sốt, rồi kêu mệt. Theo lời anh Đoài, từ hôm tham gia mổ thịt, nấu cao, đánh chén con trăn trộm gà ở nhà bà chị Vì Thị Chuẩn, anh có cảm giác hay mệt, hay ốm.


< Cụ Đứng bảo rằng, những người già bản Thín hiểu rõ về truyền thuyết trăn thần, nên không bao giờ dám bắt trăn ở núi Hằng.

Loài trăn không có độc, bản thân anh Đoài cũng không tin chuyện tâm linh, trăn thần, nhưng nghe nhiều người dọa, anh cũng thấy hơi hãi. Vì vậy, tôi cất lời nhờ anh dẫn vào hang Hằng tìm trăn, anh Đoài nhất định từ chối.

Tuy nhiên, anh Đoài có cậu cháu tên Quang, là thanh niên thông thạo hang Hằng nhất bản Thín này. Trong khi đám bạn sợ trăn thần, rắn độc, sợ sự linh thiêng của núi Hằng, thì Quang không sợ gì cả. Từ nhỏ, Quang đã thám hiểm hang Hằng, thường xuyên bắt cá trong hang về ăn. Quang chui khắp các ngóc ngách, bò giữa bầy trăn mà không khiếp sợ.

Bữa đó, Quang đang lợp mái nhà cho một người dân trong bản. Điều lạ lùng ở bản Thín, đó là, việc làm nhà không phải của người già, của các nghệ nhân, mà là của đám thanh niên. Hễ nhà nào làm nhà, thanh niên cả bản kéo đến làm giúp. Mặc dù đang là nhân công chính dựng ngôi nhà sàn, song khi trưởng bản Đoài gọi, Quang dừng việc đi ngay. Mấy chục nam thanh nữ tú đều thích thú muốn khám phá hang Hằng, nhưng đều sợ hãi không dám theo chúng tôi.

< Trong lòng hang Hằng.

Chúng tôi nai nịt gọn gàng. Đèn pin mỗi người hai chiếc. Quang vác theo một cây gỗ dài tới 7m. Theo Quang, đường vào hang nhiều đoạn dốc đứng, nên phải cắm cây gỗ để có thứ mà bám vào tụt xuống. Đứng ở con dốc vào bản Thín, thấy núi Hằng hiện rõ, um tùm, nằm bên thung lũng, dưới chân dãy Pha Luông. Chúng tôi cứ nhằm con đường mòn cắt ngang thung lũng mà đi.

Quang bảo, từ bé, cậu đã được nghe nhiều cụ già trong bản kể truyền thuyết về trăn thần cứu người, về hang Hằng. Những đứa trẻ khác nghe xong thì sợ hãi, không dám bén mảng đến núi Phạ Hằng, nhưng riêng cậu thì thấy thích thú, muốn khám phá núi Hằng, muốn chui vào hang Hằng, xem có đúng là có nhiều trăn như trong truyền thuyết không.

< Núi Phạ Hằng.

Ông cha Quang kể rằng, người Thái sống ở vùng đất này đã lâu, kể truyền thuyết về hang Hằng hàng đêm bên bếp lửa, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai biết hang Hằng ở chỗ nào, vì chẳng ai dám vào núi Phạ Hằng rậm rạp. Về sau, người Mường di cư từ nơi khác đến bản Thín, dựng nhà, dựng cửa, sống cùng với người Thái. Người Mường rất giỏi săn bắn, và nhiều thợ săn không sợ núi Phạ Hằng.

Trong số những thợ săn đó, có lão Sung. Lão Sung nổi tiếng khắp vùng Mộc Châu vì tài săn bắn. Lão từng giết hàng chục con hổ, vật nhau với gấu giữa rừng. Chưa từng có loài mãnh thú nào sống sót trước mũi tên của lão. Chuyện lão thợ săn thiện xạ tên Sung cứ như huyền thoại, được lớp già kể lại trong những đêm bên bếp lửa, chứ thế hệ trẻ như Quang không còn biết lão Sung là ai nữa.

< Lão Sung là người tìm ra hang Hằng.

Một lần, lão Sung vác nỏ vào rừng, bắn trúng gáy con lợn lòi. Giống lợn rừng cực kỳ khỏe, nên một mũi tên không thể giết ngay được nó. Lão Sung lần theo dấu máu của con lợn rừng. Dù bị thương nặng, song con lợn rừng vẫn lê lết đến tận vách núi Hằng. Nhưng lạ thay, đến chân núi thì dấu máu biến mất. Con lợn to tướng như thế không thể bốc hơi một cách kỳ lạ như vậy.

Lão Sung vạch từng bụi cỏ, hốc cây bên vách núi tìm kiếm, thì phát hiện có một cửa động rất nhỏ, chỉ vừa người chui. Lão Sung chui vào trong động, thì phát hiện vũng máu đọng ngay phía trong động. Như vậy, con lợn lòi trúng tên đã chui vào hang động này. Tuy nhiên, hang tối quá, nên lão Sung phải quay ra.

< Tác giả chui xuống hang Hằng đi tìm trăn.

Lão Sung dùng dao tước mấy miếng gỗ thông đặc quánh tinh dầu rồi châm lửa đốt. Gỗ thông đượm tinh dầu cháy bùng bùng phát sáng cả vùng rộng lớn. Lão Sung cầm bó đuốc tiến vào trong hang. Đi được một đoạn, lão chợt khựng lại, khi trước mặt mình, trên vách đá là một con trăn khổng lồ, thân to bằng cột nhà, màu da loang lổ, chỗ vàng, chỗ đen.

Con trăn khổng lồ đã bóp chết con lợn lòi to tướng, nặng phải trên tạ. Đuôi nó quấn chặt vào mỏm đá trên vách hang, miệng đớp chặt đầu con lợn kéo tuột lên vách đá. Con trăn cuộn thân quấn chặt con lợn, rồi há miệng đớp đầu con lợn. Nó quằn quại một lát, đã nuốt trọn con lợn lòi vào bụng.

Ánh sáng lập lòe và sự có mặt của lão Sung không khiến con trăn khiếp sợ. Là thợ săn lão luyện, nên lão Sung không sợ hãi bỏ chạy. Lão đối mặt trăn rắn nhiều rồi, nhưng trong mơ lão cũng chưa từng gặp một con trăn lớn như thế. Lão muốn giết nó đòi lại con lợn, nhưng chưa chuẩn bị kỹ, lại không có vũ khí, nên lão rời hang đá trở về bản.

< Trăn lột xác trong hang Hằng.

Sau này, tôi gặp lại cụ Vì Văn Đứng, hỏi chuyện về lão Sung, cụ Đứng cũng xác nhận chuyện lão Sung phát hiện hang Hằng là thật. Theo cụ Đứng, hôm lão Sung về bản, kể chuyện chui vào hang, gặp trăn khổng lồ, nhiều người chế nhạo cho rằng lão Sung nhìn gà hóa cuốc, nhưng lão Đứng thì tin là thật. Lúc đó, lão Đứng mới hiểu vì sao trâu, bò, dê của dân bản hễ thả vào rừng là biến mất.

Đã có mấy lần, khi lão Đứng đi săn, đuổi theo bọn nai, hoẵng, khỉ, nhưng chỉ đuổi đến núi Hằng là lão dừng lại. Lão không dám mạo phạm đến quả núi thiêng này. Nhưng điều lạ là, khi bầy thú chạy về phía núi Hằng, thì bỗng có tiếng xào xạc, ào ào, khiến cây cối khu rừng rung lên bần bật. Lão Đứng cũng chỉ nghĩ trong khu rừng bí ẩn đó có loài mãnh thú nào đó, hoặc bầy khỉ nhảy nhót trên cành cây, chứ cũng không dám tin lại có loài trăn khổng lồ như trong huyền thoại.

Bị nhiều người châm chọc, nên lão Sung tức lắm. Lão Sung mài rựa, vót tên, lên rừng lấy nhựa độc tẩm mũi giáo và quyết chí vào núi Hằng tìm con trăn khổng lồ. Lão Sung rủ các thợ săn đi cùng hỗ trợ, nhưng chẳng ai dám đi, dù không ai tin chuyện trăn thần là thật.

Lão Sung một mình khuất dạng sau những tán cây. Mấy chục người dân trong bản chờ ở đầu dốc. Mọi người chờ đến chiều tối, mà chẳng thấy lão ra khỏi rừng. Vợ con bắt đầu kêu khóc. Ai cũng tin lão Sung đã bị con trăn nuốt chửng. Tuy nhiên, nhập nhoạng tối, lão Sung mò ra với khuôn mặt bơ phờ. Lão bảo đã giết hạ con trăn, nhưng chỉ lôi được đuôi nó ra đến miệng hang.

Lúc này, đám trai bản mới mạnh dạn cùng lão kéo đến cửa hang, lôi xác con trăn về bản. Con trăn khổng lồ dài ngót chục mét, nặng phải 150kg. Tất cả các cụ già trong bản kéo đến và ai cũng khẳng định từ bé đến giờ chưa từng gặp con trăn nào lớn như thế. Có người nhìn con trăn thì khiếp sợ vì nghĩ nó là trăn thần, nhưng có người thì hả hê vì trả thù được cho trâu bò, dê lợn nhà mình.

< Các cụ già trong bản thường kể chuyện hang trăn núi Hằng cho lớp trẻ nghe.

Sau lần bắt được con trăn khổng lồ đó, lão Sung như người mất hồn. Lão không đi săn nữa, cũng chẳng tiếp xúc với ai. Lão lầm lì trong nhà. Lão Sung kể với mấy bạn già rằng, từ hôm giết ngu phạ (tiếng Thái là trăn trời), đêm nào lão cũng mơ thấy trăn thần trong truyền thuyết của người Thái quấn lão đến ngộp thở, rồi nuốt chửng lão vào bụng.

Thi thoảng, người dân trong bản vẫn gặp lão Sung mang lễ vào núi Hằng khấn vái. Thời gian sau, lão về với tổ tiên. Chuyện lão chết thế nào không ai biết. Lão đã chết mất chục năm nay.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

Nhắc đến Nguyễn Công P., người dân ở thị trấn nông trường Thảo Nguyên (Mộc Châu, Sơn La), không ai là không biết. Vị đại gia này nổi tiếng cả vùng Tây Bắc về buôn bán các loại thú nhồi bông và cung cấp các loại cao.

< Bản Thín nằm dưới chân núi Pha Luông.

Lãnh địa của trăn

Lạc vào nhà đại gia này, tôi thực sự choáng, khi khắp 4 bức tường phòng khách, kín các căn phòng treo la liệt các loại đầu lâu thú, kín nền nhà là các loại thú nhồi bông, từ hổ, báo, mèo rừng, nai, hoẵng, gấu, bò tót, trâu rừng… đến đầu trăn ngắc ngoải.

Trong nhà đại gia P. lúc nào cũng đỏ lửa nấu các loại cao. Cao hổ thì phải đặt hàng, vì nguồn hổ hiếm, nhưng cao trăn thì khách đặt cả tạ cũng có. Tôi hỏi rằng, nguồn cao trăn ở đâu lắm thế, đại gia này bảo rằng, dãy núi Pha Luông, đoạn chạy qua Vườn quốc gia Xuân Nha, thuộc huyện Mộc Châu có rất nhiều trăn. Theo lời đại gia P., chỉ cần ông đặt hàng trước 1 tuần, thì đám con buôn sẽ gom được cả tạ trăn, mà đảm bảo 100% là trăn hoang dã. Việc bắt trăn cũng không quá vất vả, chỉ việc xách bao, đeo chiếc đèn pin, chui vao hang động, là có thể thu hoạch được cả… bao trăn!

Nghe đại gia P. nói vậy, tôi tỏ vẻ không tin. Thi thoảng, người dân bắt được con trăn hoang dã, đã khiến cả vùng rộng lớn xôn xao, chứ làm gì có chuyện trăn hoang dã còn nhiều đến thế. Đại gia P. quả quyết với tôi rằng, ngay cửa Vườn quốc gia Xuân Nha, có một số hang động, trong đó, nổi tiếng là hang Hằng, có rất nhiều trăn. Dù không tin lời đại gia P. lắm, xong tôi vẫn thử tìm đến dãy núi Pha Luông, đi tìm hang động kỳ bí, nơi có rất nhiều trăn, theo chỉ dẫn của vị đại gia có cả dây chuyền nấu cao kia.

Từ ngã ba Vân Hồ, thủ phủ của các ông trùm buôn bán ma túy khét tiếng, tôi rẽ vào con đường dẫn đến xã Xuân Nha, nằm dưới chân dãy núi Pha Luông. Những bản người Mông hiện lên trong màn sương mờ, với hoa mận, hoa mơ bung nở trắng li li như những bông tuyết. Con đường đã trải nhựa, nhưng dốc ngược như đường lên trời, lúc quanh co bên vách núi, lúc xuyên qua núi đá như máng nước. Đi mãi mà chẳng gặp người. Con đường dốc dác xuyên đại ngàn sang Lào này nghe đồn rằng, cửu vạn ma túy đi lại nhiều hơn cả đồng bào bản địa.

< Dựng nhà ở bản Thín.

Con đường gần 20 km từ Mộc Châu vào Xuân Nha chìm nghỉm trong mây, nhưng thung lũng Thín hiện ra trong nắng nhạt, ấp áp. Dọc con đường xuyên qua bản, thanh niên trai tráng dựng nhà đông như hội. Đồng bào Thái ở đây thường dựng nhà vào cuối năm và việc dựng nhà chủ yếu do thanh niên. Họ làm nhà giúp nhau một cách vô tư, không lấy tiền.

Trưởng bản Vì Văn Đoài bảo: “Bản Thín của mình nằm dưới thung lũng, bốn bề núi cao vây bọc, nên dù khắp các đỉnh núi mây mù, lạnh giá, thì bản Thín vẫn quang đãng, ấm cúng. Nhiệt độ ở đây lúc nào cũng cao hơn Mộc Châu gần 10 độ. Mùa hè thì nóng lắm. Mình đi Hà Nội rồi. Thủ đô không nóng bằng bản Thín của mình đâu”. Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết: “Bốn bề lạnh giá, mà bản Thín lại nóng ấm thế này, chắc là trăn rắn khắp nơi tụ về nhiều lắm!”.


< Trưởng bản Vì Văn Đoài.

Trưởng bản Đoài bảo: “Ồ, nhà báo nói đúng rồi. Bản Mình nổi tiếng có nhiều trăn rắn mà. Chẳng mấy ngày là không có người tóm được trăn, rắn. Đêm nào trăn chẳng mò về bản bắt gà. Bản mình cứ nghèo, cứ đói mãi vậy thôi. Nuôi con gà, con dê, con lợn nào có dám thả ra rừng. Mấy ông trăn xơi hết ngay. Mà nhốt trong chuồng rồi, ông trăn vẫn tìm về ăn vụng của bản mình”.

Theo trưởng bản Đoài, vừa mới đây thôi, cách chừng nửa tháng, cả bản nháo nhào chạy ra đường xem có sự gì lạ, thì thấy hai thanh niên lững thững vạch rừng đi ra đường cái. Chuyện cứ như phim kinh dị: Hai thanh niên gánh cây gỗ trên vai. Trên cây gỗ ấy là con trăn khổng lồ quấn như sợi thừng quanh cây gỗ. Đầu và đuôi trăn bị buộc thít chặt bằng dây lạt nên không ngắc ngoải được.

Trưởng bản Đoài biết rằng, bắn trăn hoang dã là vi phạm pháp luật, là giết hại động vật trong sách đỏ, nhưng khổ nỗi, nhiều đồng bào trong bản lại… vui mừng khôn xiết. Đồng bào ghét con trăn ấy lắm, vì nó to như thế, nặng đến mấy chục cân như thế, sống dễ đến chục năm trong rừng như thế, thì nó xơi không biết bao nhiêu dê, lợn, gà của đồng bào rồi.

< Trăn thường xuyên về bản Thín 'ăn trộm' gia cầm của đồng bào.

Trưởng bản Đoài bảo, mấy chục năm trước, rừng Xuân Nha rất nhiều hổ và chó sói. Hổ tuy khiến đồng bào khiếp sợ, nhưng chó sói mới là lũ phá hoại đồng bào nhiều nhất. Trâu bò thả lên rừng toàn bị bọn sói đỏ đớp thủng mông, moi lòng phèo ra xơi. Đớp chết con này, ăn hết lòng phèo, chúng lại giết hại con khác.

Rừng Xuân Nha bị lâm tặc khai thác cạn kiệt, bị đồng bào di cư chặt hạ nhiều nơi, nên hổ biến mất, sói cũng bị đuổi đi xa, những tưởng cuộc sống đã bình yên, nhưng lại bị bọn trăn quấy rối. Chính vì thế, dù biết rằng, trăn là loài vật trong sách đỏ, bị cấm săn bắt, nhưng nếu loài động vật ấy cứ đêm đêm mò vào tận chuồng xơi gà, vịt, dê, lợn của đồng bào, thì đồng bào ức nó lắm. Đó cũng là tâm lý dễ hiểu. Tôi hỏi trưởng bản Đoài: “Trưởng bản biết trăn là loài vật được ghi trong sách đỏ, cấm săn bắt, giết hại? Vậy trưởng bảo có tuyên truyền cho người dân hiểu không?”.

< Dãy núi Pha Luông ở huyện Mộc Châu.

Trưởng bản Đoài bảo: “Mình biết chứ, nhưng con trăn nó phá đồng bào mình quá. Thú thật với nhà báo là mình cũng… xơi thịt trăn liên tục ấy mà. Nhà báo không tin thì mình lấy mỡ trăn cho nhà báo xem nhé. Nhà mình có nhiều mỡ trăn lắm. Nó ở rừng thì nó là giống hoang dã, cần bảo vệ, nhưng nó mò về nhà mình, ăn gà nhà mình, thì nó là kẻ thù của mình, mình phải ăn thịt nó chứ. Mình không ăn thịt nó, thì nó ăn gà, ăn lợn nhà mình”.

Tôi và trưởng bản Đoài đang tranh luận về việc bảo vệ trăn hay tóm trăn mổ thịt, thì bà Vì Thị Chuẩn ghé vào nhà trưởng bản. Trưởng bản Đoài bảo: “Chị Chuẩn là chị gái mình đấy. Trăn vừa về nhà chị ấy trộm gà, bị mấy người nhà mình tóm sống và ăn thịt nó rồi”.

Tóm trăn làm thịt

Khi tôi đang tranh luận chuyện nên bảo vệ trăn, hay tóm sống chúng để làm thịt với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), thì bà Vì Thị Chuẩn ghé nhà trưởng bản chơi. Bà Chuẩn là chị gái trưởng bản Đoài.

< Bà Chuẩn rất bức xúc vì bị trăn trộm rất nhiều gà, vịt.

Đang nói chuyện trăn, bà Chuẩn bảo: “Mình nuôi được 10 con gà, thì chỉ ăn thịt được 5 con thôi, vì 5 con gà bị trăn ăn trộm mất. Bọn trăn tham lam lắm, cứ đêm đêm mò về bản bắt gà của mình”. Nhiều đêm đang ngủ, nghe tiếng gà kêu quang quác, bà trở dậy, bật đèn pin rọi vào chuồng gà, y rằng có một tên trăn vung thân phóng vọt vào rừng. Đấy là những tên trăn gan bé, chứ nhiều lần, thấy bà, chúng chẳng thèm chạy, cứ ung dung nuốt chửng gà vịt, rồi mới lững thững bò đi.

Bà Chuẩn vốn bị bỏng từ nhỏ. Hồi 6 tháng tuổi, mới đang tập bò, thì bò đúng vào đống than hồng giữa nhà. Giờ đã ở tuổi 50, nhưng khuôn mặt vẫn chằng chịt sẹo. Vì hạn chế nhan sắc, nên bà không lấy được chồng, ở một mình một nhà. Vậy nên, đêm hôm, soi đèn pin vào chuồng gà, thấy trăn khổng lồ, to bằng cây chuối, cái phích, nửa thân trong chuồng đớp gà, nửa thân còn dài ngoẵng tít hút, bà hãi lắm, sợ đến chết đứng, thì sao còn tóm được chúng nữa. Thôi đành để nó xơi no bụng, rồi tự nó bò đi. Đuổi nó, nó xơi thịt cả bà, thì quá tội nợ.

< Dù biết trăn là động vật trong sách đó, nhưng anh Đoài vẫn bức xúc vì chúng liên tục ăn cắp vật nuôi của dân bản.

Bà Chuẩn bức xúc: “Nhưng bọn trăn cứ ăn gà của mình thế thì mình bức xúc lắm. Mình nuôi mãi mới được chục gà, để tết mổ thịt cúng tổ tiên, mà nó ăn hết thì ai mà chịu được”. Bức xúc vì bọn trăn, mà nhờ vả mấy cậu em, mấy đứa cháu đều không được, vì tất cả đều… sợ trăn, nên bà Chuẩn kêu ông Quyết, người Chum Nưa, cách nhà bà Chuẩn nửa ngày đường, đến ở cùng, để phục kích tóm bọn trăn.

Ông Quyết là người góa vợ, là bạn bà Chuẩn. Ông bà đều đã già, sống cảnh neo đơn, nên bầu bạn cho đỡ buồn. Hôm đó, cách đây mới 2 tháng, sắp đến ngày rằm, trăng sáng vằng vặc, ông bà đốt lửa, uống trà, hút thuốc lào đến quá nửa đêm, mà không thấy trăn mò vào chuồng trộm gà, nên tắt đèn đi ngủ.

4 giờ sáng, tiếng con gà mái quang quác mấy tiếng, rồi im bặt. Bà Chuẩn trở dậy, mang đèn đi ra sân. Bình thường, nếu trăn mò vào chuồng gà, thì cả đàn phải kêu quang quác, đánh thức cả bản, đằng này, lại chỉ nghe mấy tiếng con gà mái, nên bà Chuẩn nghĩ chỉ là chuột trêu gà, nên bà lại vào giường nằm. Thế nhưng, vừa đặt lưng, thì lại nghe tiếng con gà trống kêu. Nó chỉ kêu vài tiếng rồi im luôn. Nghĩ có sự lạ, có thể bọn chồn, cầy bắt gà, nên bà Chuẩn mò dậy, mang đèn pin soi chuồng gà.

< Trăn từ ngọn núi kia thường xuyên về nhà bà bắt trộm gà, vịt.

Chiếu đèn pin vào chuồng, bà Chuẩn đứng tim, vì một con trăn khá lớn, thân to gần bằng cái phích, dài cỡ 5m đang đớp ngang con gà trống. 3 con gà, cả trống lẫn mái nằm chết thẳng cẳng dưới nền đất. Con trăn rất lớn, nên nó đớp một cái, hoặc cuộn thân bóp nhẹ là bọn gà chết thẳng cẳng. Bà Chuẩn chạy tọt vào nhà lay ông Quyết dậy. Từng là thợ bắt trăn, bắt rắn lành nghề, nên ông Quyết chẳng vội vàng gì. Ông chậm chạp trở dậy, vươn vai, vặn mình mấy cái, rồi mò xuống dưới bếp tìm cái bao tải.

Bà Chuẩn sốt ruột giục, thì ông bảo cứ bình tĩnh. Hóa ra, nếu lúc đó xông vào chuồng gà ngay, thì con trăn sẽ bỏ chạy mất dạng. Nhưng nếu nó đã xơi mấy con gà, hoặc đang nuốt gà đến cuống họng, nó sẽ chậm chạp, và đó chính là cơ hội để tóm sống trăn. Từ lúc bà Chuẩn thông báo hốt hoảng, phải sau 15 phút sau, ông Quyết mới vòng từ phía bìa rừng, rồi tiến vào chuồng gà, theo hướng con trăn đi vào. Thấy đuôi nó vẫn lòng thòng ở ngoài, nửa thân trên trong chuồng gà, ông Quyết mặc kệ.

< Dãy Pha Luông mờ sương nhìn từ bản Thín.

Ông lần dọc về phía đầu con trăn. Ông dùng búa ráng sức bình sinh, táng một quả chí tử vào sống lưng con trăn. Con trăn bị gãy xương sống, đau đớn, quằn quại. Ông Quyết xông vào đè đầu nó xuống. Bà Chuẩn vạch miệng bao tải chụp vào đuôi con trăn. Con trăn quằn quại, rồi tuột dần vào bao tải.

Sáng hôm sau, bà Chuẩn thông báo với cả bản về việc tóm sống tên trăn chuyên trộm gà vịt của bà con. Dân bản kéo đến chúc mừng, hả hê vì đã tóm được “tên trộm”. Đích thân trưởng bản Vì Văn Đoài đã chạy sang bản Mường An, nhờ ông Xuân, là thợ nấu cao trăn nổi tiếng trong vùng đến xử lý giúp tên “tội phạm” này.

Ông Xuân bảo, trăn to thế này đích thị là trăn gió. Thế rồi, trước mặt đông đảo mọi người, chú trăn bị treo ngược lên xà nhà. Ông Xuân rạch đường nhỏ ở họng, máu tuôn xối xả. Lòng trăn được một chảo, xào thơm lừng. Thịt trăn được chế biến mấy món liền. Cả gia đình trưởng bản đánh chén nó say. Phần còn lại, ông Xuân đóng vào bao mang về nấu cao. Vài ngày sau, ông Xuân mang cao về cho bà Chuẩn. Bà Chuẩn chia cho mỗi người một ít cao và mỡ trăn. Người dân ở bản Thín đều dự trữ mỡ trăn trong nhà dùng để trị bỏng.

< Trăn thường xuyên vào nương rẫy bắt dê của bà con, vào tận chuồng bắt gà, lợn.

Theo lời trưởng bản Đoài, vì bọn trăn liên tục mò về bản trộm gà, vịt, dê, lợn, nên chẳng tháng nào mà không có một tên trăn bị tóm. Mới đây nhất, cách hôm chúng tôi lên bản Thín đúng 10 ngày, thì anh Thánh, cũng là họ hàng với trưởng bản Đoài, tóm được tên trăn đất khá lớn, nặng chừng 40kg, dài khoảng 4m.

Cứ khoảng chục ngày đến một tháng, tên trăn này lại mò về nhà anh Thánh ăn trộm. Hôm thì nó xơi mất vài con gà, hôm thì nó nuốt chửng con lợn. Anh Thánh bức xúc lắm, nhưng chưa có cách nào trả thù được con trăn. Anh Thánh đã chấp nhận hy sinh một con lợn cắp nách, nặng 20kg để tóm tên trăn này. Anh đã dùng dây thừng thít chặt chân chú lợn, rồi buộc sợi dây vào cột chuồng.

Tên trăn đất mò vào chuồng, bóp chết lợn, nuốt chửng chú lợn. Tuy nhiên, nó cũng nuốt luôn cả sợi dây thừng. Nó chưa kịp nôn con lợn ra để tẩu thoát, thì đã bị anh Thánh cùng người nhà tóm sống. Mọi người còn đang tính xả thịt xào nấu liên hoan ăn mừng, hay thả nó vào nồi nấu cao, thì thợ mua trăn từ Mộc Châu tìm vào trả giá. Được món hời, nên anh Thánh bán cho lái buôn. Sau này tôi mới biết, chính đại gia P. ở Mộc Châu đã mua con trăn này. Nó đã thành cao.

< Tháng nào người dân bản Thín cũng tóm được trăn.

Xa hơn một chút, cách nay tròn 3 tháng, ông Chức, ở cuối bản Thín, cũng tóm được một tên trăn gió, chỉ nặng 22 kg. Tên trăn này cũng vong mạng vì dám mò vào chuồng gà và xơi tái mấy con gà liền. Chú trăn xấu số này đã biến thành những miếng cao vuông vức. Vì trưởng bản Đoài là em họ của ông Chức, nên cũng được chia miếng cao và một ít cao để ngâm rượu uống cho bổ.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

Nhắc đến Nguyễn Công P., người dân ở thị trấn nông trường Thảo Nguyên (Mộc Châu, Sơn La), không ai là không biết. Vị đại gia này nổi tiếng cả vùng Tây Bắc về buôn bán các loại thú nhồi bông và cung cấp các loại cao.

< Bản Thín nằm dưới chân núi Pha Luông.

Lãnh địa của trăn

Lạc vào nhà đại gia này, tôi thực sự choáng, khi khắp 4 bức tường phòng khách, kín các căn phòng treo la liệt các loại đầu lâu thú, kín nền nhà là các loại thú nhồi bông, từ hổ, báo, mèo rừng, nai, hoẵng, gấu, bò tót, trâu rừng… đến đầu trăn ngắc ngoải.

Trong nhà đại gia P. lúc nào cũng đỏ lửa nấu các loại cao. Cao hổ thì phải đặt hàng, vì nguồn hổ hiếm, nhưng cao trăn thì khách đặt cả tạ cũng có. Tôi hỏi rằng, nguồn cao trăn ở đâu lắm thế, đại gia này bảo rằng, dãy núi Pha Luông, đoạn chạy qua Vườn quốc gia Xuân Nha, thuộc huyện Mộc Châu có rất nhiều trăn. Theo lời đại gia P., chỉ cần ông đặt hàng trước 1 tuần, thì đám con buôn sẽ gom được cả tạ trăn, mà đảm bảo 100% là trăn hoang dã. Việc bắt trăn cũng không quá vất vả, chỉ việc xách bao, đeo chiếc đèn pin, chui vao hang động, là có thể thu hoạch được cả… bao trăn!

Nghe đại gia P. nói vậy, tôi tỏ vẻ không tin. Thi thoảng, người dân bắt được con trăn hoang dã, đã khiến cả vùng rộng lớn xôn xao, chứ làm gì có chuyện trăn hoang dã còn nhiều đến thế. Đại gia P. quả quyết với tôi rằng, ngay cửa Vườn quốc gia Xuân Nha, có một số hang động, trong đó, nổi tiếng là hang Hằng, có rất nhiều trăn. Dù không tin lời đại gia P. lắm, xong tôi vẫn thử tìm đến dãy núi Pha Luông, đi tìm hang động kỳ bí, nơi có rất nhiều trăn, theo chỉ dẫn của vị đại gia có cả dây chuyền nấu cao kia.

Từ ngã ba Vân Hồ, thủ phủ của các ông trùm buôn bán ma túy khét tiếng, tôi rẽ vào con đường dẫn đến xã Xuân Nha, nằm dưới chân dãy núi Pha Luông. Những bản người Mông hiện lên trong màn sương mờ, với hoa mận, hoa mơ bung nở trắng li li như những bông tuyết. Con đường đã trải nhựa, nhưng dốc ngược như đường lên trời, lúc quanh co bên vách núi, lúc xuyên qua núi đá như máng nước. Đi mãi mà chẳng gặp người. Con đường dốc dác xuyên đại ngàn sang Lào này nghe đồn rằng, cửu vạn ma túy đi lại nhiều hơn cả đồng bào bản địa.

< Dựng nhà ở bản Thín.

Con đường gần 20 km từ Mộc Châu vào Xuân Nha chìm nghỉm trong mây, nhưng thung lũng Thín hiện ra trong nắng nhạt, ấp áp. Dọc con đường xuyên qua bản, thanh niên trai tráng dựng nhà đông như hội. Đồng bào Thái ở đây thường dựng nhà vào cuối năm và việc dựng nhà chủ yếu do thanh niên. Họ làm nhà giúp nhau một cách vô tư, không lấy tiền.

Trưởng bản Vì Văn Đoài bảo: “Bản Thín của mình nằm dưới thung lũng, bốn bề núi cao vây bọc, nên dù khắp các đỉnh núi mây mù, lạnh giá, thì bản Thín vẫn quang đãng, ấm cúng. Nhiệt độ ở đây lúc nào cũng cao hơn Mộc Châu gần 10 độ. Mùa hè thì nóng lắm. Mình đi Hà Nội rồi. Thủ đô không nóng bằng bản Thín của mình đâu”. Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết: “Bốn bề lạnh giá, mà bản Thín lại nóng ấm thế này, chắc là trăn rắn khắp nơi tụ về nhiều lắm!”.


< Trưởng bản Vì Văn Đoài.

Trưởng bản Đoài bảo: “Ồ, nhà báo nói đúng rồi. Bản Mình nổi tiếng có nhiều trăn rắn mà. Chẳng mấy ngày là không có người tóm được trăn, rắn. Đêm nào trăn chẳng mò về bản bắt gà. Bản mình cứ nghèo, cứ đói mãi vậy thôi. Nuôi con gà, con dê, con lợn nào có dám thả ra rừng. Mấy ông trăn xơi hết ngay. Mà nhốt trong chuồng rồi, ông trăn vẫn tìm về ăn vụng của bản mình”.

Theo trưởng bản Đoài, vừa mới đây thôi, cách chừng nửa tháng, cả bản nháo nhào chạy ra đường xem có sự gì lạ, thì thấy hai thanh niên lững thững vạch rừng đi ra đường cái. Chuyện cứ như phim kinh dị: Hai thanh niên gánh cây gỗ trên vai. Trên cây gỗ ấy là con trăn khổng lồ quấn như sợi thừng quanh cây gỗ. Đầu và đuôi trăn bị buộc thít chặt bằng dây lạt nên không ngắc ngoải được.

Trưởng bản Đoài biết rằng, bắn trăn hoang dã là vi phạm pháp luật, là giết hại động vật trong sách đỏ, nhưng khổ nỗi, nhiều đồng bào trong bản lại… vui mừng khôn xiết. Đồng bào ghét con trăn ấy lắm, vì nó to như thế, nặng đến mấy chục cân như thế, sống dễ đến chục năm trong rừng như thế, thì nó xơi không biết bao nhiêu dê, lợn, gà của đồng bào rồi.

< Trăn thường xuyên về bản Thín 'ăn trộm' gia cầm của đồng bào.

Trưởng bản Đoài bảo, mấy chục năm trước, rừng Xuân Nha rất nhiều hổ và chó sói. Hổ tuy khiến đồng bào khiếp sợ, nhưng chó sói mới là lũ phá hoại đồng bào nhiều nhất. Trâu bò thả lên rừng toàn bị bọn sói đỏ đớp thủng mông, moi lòng phèo ra xơi. Đớp chết con này, ăn hết lòng phèo, chúng lại giết hại con khác.

Rừng Xuân Nha bị lâm tặc khai thác cạn kiệt, bị đồng bào di cư chặt hạ nhiều nơi, nên hổ biến mất, sói cũng bị đuổi đi xa, những tưởng cuộc sống đã bình yên, nhưng lại bị bọn trăn quấy rối. Chính vì thế, dù biết rằng, trăn là loài vật trong sách đỏ, bị cấm săn bắt, nhưng nếu loài động vật ấy cứ đêm đêm mò vào tận chuồng xơi gà, vịt, dê, lợn của đồng bào, thì đồng bào ức nó lắm. Đó cũng là tâm lý dễ hiểu. Tôi hỏi trưởng bản Đoài: “Trưởng bản biết trăn là loài vật được ghi trong sách đỏ, cấm săn bắt, giết hại? Vậy trưởng bảo có tuyên truyền cho người dân hiểu không?”.

< Dãy núi Pha Luông ở huyện Mộc Châu.

Trưởng bản Đoài bảo: “Mình biết chứ, nhưng con trăn nó phá đồng bào mình quá. Thú thật với nhà báo là mình cũng… xơi thịt trăn liên tục ấy mà. Nhà báo không tin thì mình lấy mỡ trăn cho nhà báo xem nhé. Nhà mình có nhiều mỡ trăn lắm. Nó ở rừng thì nó là giống hoang dã, cần bảo vệ, nhưng nó mò về nhà mình, ăn gà nhà mình, thì nó là kẻ thù của mình, mình phải ăn thịt nó chứ. Mình không ăn thịt nó, thì nó ăn gà, ăn lợn nhà mình”.

Tôi và trưởng bản Đoài đang tranh luận về việc bảo vệ trăn hay tóm trăn mổ thịt, thì bà Vì Thị Chuẩn ghé vào nhà trưởng bản. Trưởng bản Đoài bảo: “Chị Chuẩn là chị gái mình đấy. Trăn vừa về nhà chị ấy trộm gà, bị mấy người nhà mình tóm sống và ăn thịt nó rồi”.

Tóm trăn làm thịt

Khi tôi đang tranh luận chuyện nên bảo vệ trăn, hay tóm sống chúng để làm thịt với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), thì bà Vì Thị Chuẩn ghé nhà trưởng bản chơi. Bà Chuẩn là chị gái trưởng bản Đoài.

< Bà Chuẩn rất bức xúc vì bị trăn trộm rất nhiều gà, vịt.

Đang nói chuyện trăn, bà Chuẩn bảo: “Mình nuôi được 10 con gà, thì chỉ ăn thịt được 5 con thôi, vì 5 con gà bị trăn ăn trộm mất. Bọn trăn tham lam lắm, cứ đêm đêm mò về bản bắt gà của mình”. Nhiều đêm đang ngủ, nghe tiếng gà kêu quang quác, bà trở dậy, bật đèn pin rọi vào chuồng gà, y rằng có một tên trăn vung thân phóng vọt vào rừng. Đấy là những tên trăn gan bé, chứ nhiều lần, thấy bà, chúng chẳng thèm chạy, cứ ung dung nuốt chửng gà vịt, rồi mới lững thững bò đi.

Bà Chuẩn vốn bị bỏng từ nhỏ. Hồi 6 tháng tuổi, mới đang tập bò, thì bò đúng vào đống than hồng giữa nhà. Giờ đã ở tuổi 50, nhưng khuôn mặt vẫn chằng chịt sẹo. Vì hạn chế nhan sắc, nên bà không lấy được chồng, ở một mình một nhà. Vậy nên, đêm hôm, soi đèn pin vào chuồng gà, thấy trăn khổng lồ, to bằng cây chuối, cái phích, nửa thân trong chuồng đớp gà, nửa thân còn dài ngoẵng tít hút, bà hãi lắm, sợ đến chết đứng, thì sao còn tóm được chúng nữa. Thôi đành để nó xơi no bụng, rồi tự nó bò đi. Đuổi nó, nó xơi thịt cả bà, thì quá tội nợ.

< Dù biết trăn là động vật trong sách đó, nhưng anh Đoài vẫn bức xúc vì chúng liên tục ăn cắp vật nuôi của dân bản.

Bà Chuẩn bức xúc: “Nhưng bọn trăn cứ ăn gà của mình thế thì mình bức xúc lắm. Mình nuôi mãi mới được chục gà, để tết mổ thịt cúng tổ tiên, mà nó ăn hết thì ai mà chịu được”. Bức xúc vì bọn trăn, mà nhờ vả mấy cậu em, mấy đứa cháu đều không được, vì tất cả đều… sợ trăn, nên bà Chuẩn kêu ông Quyết, người Chum Nưa, cách nhà bà Chuẩn nửa ngày đường, đến ở cùng, để phục kích tóm bọn trăn.

Ông Quyết là người góa vợ, là bạn bà Chuẩn. Ông bà đều đã già, sống cảnh neo đơn, nên bầu bạn cho đỡ buồn. Hôm đó, cách đây mới 2 tháng, sắp đến ngày rằm, trăng sáng vằng vặc, ông bà đốt lửa, uống trà, hút thuốc lào đến quá nửa đêm, mà không thấy trăn mò vào chuồng trộm gà, nên tắt đèn đi ngủ.

4 giờ sáng, tiếng con gà mái quang quác mấy tiếng, rồi im bặt. Bà Chuẩn trở dậy, mang đèn đi ra sân. Bình thường, nếu trăn mò vào chuồng gà, thì cả đàn phải kêu quang quác, đánh thức cả bản, đằng này, lại chỉ nghe mấy tiếng con gà mái, nên bà Chuẩn nghĩ chỉ là chuột trêu gà, nên bà lại vào giường nằm. Thế nhưng, vừa đặt lưng, thì lại nghe tiếng con gà trống kêu. Nó chỉ kêu vài tiếng rồi im luôn. Nghĩ có sự lạ, có thể bọn chồn, cầy bắt gà, nên bà Chuẩn mò dậy, mang đèn pin soi chuồng gà.

< Trăn từ ngọn núi kia thường xuyên về nhà bà bắt trộm gà, vịt.

Chiếu đèn pin vào chuồng, bà Chuẩn đứng tim, vì một con trăn khá lớn, thân to gần bằng cái phích, dài cỡ 5m đang đớp ngang con gà trống. 3 con gà, cả trống lẫn mái nằm chết thẳng cẳng dưới nền đất. Con trăn rất lớn, nên nó đớp một cái, hoặc cuộn thân bóp nhẹ là bọn gà chết thẳng cẳng. Bà Chuẩn chạy tọt vào nhà lay ông Quyết dậy. Từng là thợ bắt trăn, bắt rắn lành nghề, nên ông Quyết chẳng vội vàng gì. Ông chậm chạp trở dậy, vươn vai, vặn mình mấy cái, rồi mò xuống dưới bếp tìm cái bao tải.

Bà Chuẩn sốt ruột giục, thì ông bảo cứ bình tĩnh. Hóa ra, nếu lúc đó xông vào chuồng gà ngay, thì con trăn sẽ bỏ chạy mất dạng. Nhưng nếu nó đã xơi mấy con gà, hoặc đang nuốt gà đến cuống họng, nó sẽ chậm chạp, và đó chính là cơ hội để tóm sống trăn. Từ lúc bà Chuẩn thông báo hốt hoảng, phải sau 15 phút sau, ông Quyết mới vòng từ phía bìa rừng, rồi tiến vào chuồng gà, theo hướng con trăn đi vào. Thấy đuôi nó vẫn lòng thòng ở ngoài, nửa thân trên trong chuồng gà, ông Quyết mặc kệ.

< Dãy Pha Luông mờ sương nhìn từ bản Thín.

Ông lần dọc về phía đầu con trăn. Ông dùng búa ráng sức bình sinh, táng một quả chí tử vào sống lưng con trăn. Con trăn bị gãy xương sống, đau đớn, quằn quại. Ông Quyết xông vào đè đầu nó xuống. Bà Chuẩn vạch miệng bao tải chụp vào đuôi con trăn. Con trăn quằn quại, rồi tuột dần vào bao tải.

Sáng hôm sau, bà Chuẩn thông báo với cả bản về việc tóm sống tên trăn chuyên trộm gà vịt của bà con. Dân bản kéo đến chúc mừng, hả hê vì đã tóm được “tên trộm”. Đích thân trưởng bản Vì Văn Đoài đã chạy sang bản Mường An, nhờ ông Xuân, là thợ nấu cao trăn nổi tiếng trong vùng đến xử lý giúp tên “tội phạm” này.

Ông Xuân bảo, trăn to thế này đích thị là trăn gió. Thế rồi, trước mặt đông đảo mọi người, chú trăn bị treo ngược lên xà nhà. Ông Xuân rạch đường nhỏ ở họng, máu tuôn xối xả. Lòng trăn được một chảo, xào thơm lừng. Thịt trăn được chế biến mấy món liền. Cả gia đình trưởng bản đánh chén nó say. Phần còn lại, ông Xuân đóng vào bao mang về nấu cao. Vài ngày sau, ông Xuân mang cao về cho bà Chuẩn. Bà Chuẩn chia cho mỗi người một ít cao và mỡ trăn. Người dân ở bản Thín đều dự trữ mỡ trăn trong nhà dùng để trị bỏng.

< Trăn thường xuyên vào nương rẫy bắt dê của bà con, vào tận chuồng bắt gà, lợn.

Theo lời trưởng bản Đoài, vì bọn trăn liên tục mò về bản trộm gà, vịt, dê, lợn, nên chẳng tháng nào mà không có một tên trăn bị tóm. Mới đây nhất, cách hôm chúng tôi lên bản Thín đúng 10 ngày, thì anh Thánh, cũng là họ hàng với trưởng bản Đoài, tóm được tên trăn đất khá lớn, nặng chừng 40kg, dài khoảng 4m.

Cứ khoảng chục ngày đến một tháng, tên trăn này lại mò về nhà anh Thánh ăn trộm. Hôm thì nó xơi mất vài con gà, hôm thì nó nuốt chửng con lợn. Anh Thánh bức xúc lắm, nhưng chưa có cách nào trả thù được con trăn. Anh Thánh đã chấp nhận hy sinh một con lợn cắp nách, nặng 20kg để tóm tên trăn này. Anh đã dùng dây thừng thít chặt chân chú lợn, rồi buộc sợi dây vào cột chuồng.

Tên trăn đất mò vào chuồng, bóp chết lợn, nuốt chửng chú lợn. Tuy nhiên, nó cũng nuốt luôn cả sợi dây thừng. Nó chưa kịp nôn con lợn ra để tẩu thoát, thì đã bị anh Thánh cùng người nhà tóm sống. Mọi người còn đang tính xả thịt xào nấu liên hoan ăn mừng, hay thả nó vào nồi nấu cao, thì thợ mua trăn từ Mộc Châu tìm vào trả giá. Được món hời, nên anh Thánh bán cho lái buôn. Sau này tôi mới biết, chính đại gia P. ở Mộc Châu đã mua con trăn này. Nó đã thành cao.

< Tháng nào người dân bản Thín cũng tóm được trăn.

Xa hơn một chút, cách nay tròn 3 tháng, ông Chức, ở cuối bản Thín, cũng tóm được một tên trăn gió, chỉ nặng 22 kg. Tên trăn này cũng vong mạng vì dám mò vào chuồng gà và xơi tái mấy con gà liền. Chú trăn xấu số này đã biến thành những miếng cao vuông vức. Vì trưởng bản Đoài là em họ của ông Chức, nên cũng được chia miếng cao và một ít cao để ngâm rượu uống cho bổ.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

Giữa đợt giá rét kỷ lục tại miền Bắc (dưới 9 độ C), các tình nguyện viên (TNV) của Câu lạc bộ (CLB) Nhiệt huyết trẻ đã vượt qua con đường núi hiểm trở dài hơn 10 km, mang áo ấm cho trẻ em, đồng bào hai xóm Lũng Cà, Lũng Luông (hai xóm nghèo nhất xã Thượng Nung), H.Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

< Xe tải chở quà tặng tới cho bà con Thượng Nung chỉ đến được trung tâm xã vì đường vào 2 xóm Lũng Cà, Lũng Luông rất xấu.

Cách trung tâm TP.Thái Nguyên 40 km, tuy nhiên, hai xóm Lũng Cà, Lũng Luông đến nay vẫn còn quá nhiều thiếu thốn. Con đường từ trung tâm xã tới hai xóm này, ô tô không thể vào, các TNV chỉ còn một cách đi bộ, vác trên vai quà tặng cho trẻ em, người dân vùng núi.


< Con đường dốc cheo leo vào hai xóm Lũng Cà, Lũng Luông càng khó khi trời đổ mưa tầm tã.

Hành trình bắt đầu từ ngày 19.1.2013, tuy nhiên quá trình quyên góp, chuẩn bị quần áo, gạo, chăn bông cho bà con bắt đầu từ tháng 10.2012.

Nguồn tài trợ cho chương trình ít ỏi, các TNV đều phải tự lực tham gia công tác xã hội để gây quỹ cho CLB. Trước đó, chuẩn bị cho chiến dịch tình nguyện này, các TNV đã tham gia các phiên hội chợ, bán hàng handmade, làm người cổ vũ trong các chương trình truyền hình trực tiếp của Đài truyền hình Việt Nam...


< Các TNV không ngại mưa, rét mang chăn bông, gạo tới từng ngôi nhà trong xóm.

Ngày 19.1, 30 TNV CLB đặt chân đến Thượng Nung, trời đổ mưa tầm tã, nhiệt độ ngoài trời chỉ còn dưới 9 độ C. Con đường dốc cheo leo dẫn đến Lũng Cà, Lũng Luông trơn trượt, ngập ngụa trong đất đỏ.

Vác trên vai những thùng quà nặng trĩu, nhiều TNV đã ngã, chân tay xây xước, quần áo lấm lem bùn đất. Tuy nhiên, không có ai bỏ cuộc giữa chừng.

Trẻ em, người lớn xóm Lũng Cà, Lũng Luông vui mừng đón chào đoàn tình nguyện. Nhiều người già lần đầu tiên được cầm chiếc chăn bông mới đã bật khóc vì mùa đông đến lạnh quá, không có tiền để mua chăn, áo...


< Với trẻ em, người dân Lũng Cà, Lũng Luông, những món quà cho mùa đông này thực sự quý giá.

Anh Lý Văn Hoàng, Bí thư đoàn xã Thượng Nung, cho hay hiện tại hai thôn nghèo Lũng Cà, Lũng Luông vẫn chưa có điện sáng, lương thực chủ yếu là ngô và sắn. Người dân sống chủ yếu tự cấp tự túc, trồng ngô khoai sắn trên núi. Nước ngọt khan hiếm, bà con sống thiếu nước quanh năm, cây khoai cây sắn cũng cằn cỗi.

Dân cư hai xóm chủ yếu là người Mông, trình độ dân trí rất thấp, 50% người dân không biết tiếng Kinh... Các cô giáo đến dạy học tại điểm trường trong Lũng Cà, Lũng Luông phải đi bộ 10 km vào trường, mang theo rau, ít muối vừng, cá khô mặn để ăn dần, cuối tuần mới được về nhà ở dưới xã.


< Điểm trường tiểu học Lũng Luông nằm chon von trên đỉnh núi heo hút.

Chia sẻ với khó khăn của đồng bào, CLB đã trao tặng 10 suất quà cho những học sinh học giỏi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (mỗi suất quà trị giá 150.000 đồng); trao tặng 15 suất quà cho 15 gia đình khó khăn (mỗi suất 1 chiếc chăn bông và 10 kg gạo), CLB cũng ủng hộ 500 đầu sách vở cấp cho trường tiểu học và trung học cơ sở Thượng Nung.

Tối 19.1, CLB cùng đoàn xã Thượng Nung tổ chức chương trình giao lưu văn nghệ “Ấm áp vùng cao”. Trẻ em Thượng Nung nghe hát, diễn kịch say sưa. Các em cho hay đây là lần đầu tiên trong đời được xem một buổi biểu diễn văn nghệ.
Sáng ngày 20.1 các thành viên CLB đã dọn dẹp vệ sinh trường tiểu học và trung học cơ sở Thượng Nung, thắp hương tưởng niệm và dọn dẹp tại Đài tưởng niệm Anh hùng liệt sĩ xã Thượng Nung.


< Anh Lê Đình Nguyên (trái) - Chủ nhiệm CLB Nhiệt huyết trẻ - cho biết mỗi chuyến đi lên vùng cao, anh càng trăn trở, làm sao để có thể mang ấm áp tới tất cả trẻ em.

CLB Nhiệt huyết trẻ thành lập năm 2010, tập hợp những sinh viên, công chức đang công tác, học tập tại TP.Hà Nội, tổ chức những chương trình tình nguyện tiếp sức mùa thi, mùa đông yêu thương... tại nhiều tỉnh thành khó khăn trong cả nước.

Anh Lê Đình Nguyên, Chủ nhiệm CLB Nhiệt huyết trẻ cho biết chương trình mang áo ấm đến với bà con Thượng Nung nằm trong chương trình Mùa đông yêu thương. Trong thời gian tới, CLB nhiệt huyết trẻ sẽ tổ chức các chương trình tình nguyện mang áo ấm cho trẻ em nghèo ngoại thành Hà Nội, dạy học cho trẻ em các xóm bãi sông Hồng...
Korean Air! - Theo Thúy Hằng (Thanhnien)

Giữa đợt giá rét kỷ lục tại miền Bắc (dưới 9 độ C), các tình nguyện viên (TNV) của Câu lạc bộ (CLB) Nhiệt huyết trẻ đã vượt qua con đường núi hiểm trở dài hơn 10 km, mang áo ấm cho trẻ em, đồng bào hai xóm Lũng Cà, Lũng Luông (hai xóm nghèo nhất xã Thượng Nung), H.Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

< Xe tải chở quà tặng tới cho bà con Thượng Nung chỉ đến được trung tâm xã vì đường vào 2 xóm Lũng Cà, Lũng Luông rất xấu.

Cách trung tâm TP.Thái Nguyên 40 km, tuy nhiên, hai xóm Lũng Cà, Lũng Luông đến nay vẫn còn quá nhiều thiếu thốn. Con đường từ trung tâm xã tới hai xóm này, ô tô không thể vào, các TNV chỉ còn một cách đi bộ, vác trên vai quà tặng cho trẻ em, người dân vùng núi.


< Con đường dốc cheo leo vào hai xóm Lũng Cà, Lũng Luông càng khó khi trời đổ mưa tầm tã.

Hành trình bắt đầu từ ngày 19.1.2013, tuy nhiên quá trình quyên góp, chuẩn bị quần áo, gạo, chăn bông cho bà con bắt đầu từ tháng 10.2012.

Nguồn tài trợ cho chương trình ít ỏi, các TNV đều phải tự lực tham gia công tác xã hội để gây quỹ cho CLB. Trước đó, chuẩn bị cho chiến dịch tình nguyện này, các TNV đã tham gia các phiên hội chợ, bán hàng handmade, làm người cổ vũ trong các chương trình truyền hình trực tiếp của Đài truyền hình Việt Nam...


< Các TNV không ngại mưa, rét mang chăn bông, gạo tới từng ngôi nhà trong xóm.

Ngày 19.1, 30 TNV CLB đặt chân đến Thượng Nung, trời đổ mưa tầm tã, nhiệt độ ngoài trời chỉ còn dưới 9 độ C. Con đường dốc cheo leo dẫn đến Lũng Cà, Lũng Luông trơn trượt, ngập ngụa trong đất đỏ.

Vác trên vai những thùng quà nặng trĩu, nhiều TNV đã ngã, chân tay xây xước, quần áo lấm lem bùn đất. Tuy nhiên, không có ai bỏ cuộc giữa chừng.

Trẻ em, người lớn xóm Lũng Cà, Lũng Luông vui mừng đón chào đoàn tình nguyện. Nhiều người già lần đầu tiên được cầm chiếc chăn bông mới đã bật khóc vì mùa đông đến lạnh quá, không có tiền để mua chăn, áo...


< Với trẻ em, người dân Lũng Cà, Lũng Luông, những món quà cho mùa đông này thực sự quý giá.

Anh Lý Văn Hoàng, Bí thư đoàn xã Thượng Nung, cho hay hiện tại hai thôn nghèo Lũng Cà, Lũng Luông vẫn chưa có điện sáng, lương thực chủ yếu là ngô và sắn. Người dân sống chủ yếu tự cấp tự túc, trồng ngô khoai sắn trên núi. Nước ngọt khan hiếm, bà con sống thiếu nước quanh năm, cây khoai cây sắn cũng cằn cỗi.

Dân cư hai xóm chủ yếu là người Mông, trình độ dân trí rất thấp, 50% người dân không biết tiếng Kinh... Các cô giáo đến dạy học tại điểm trường trong Lũng Cà, Lũng Luông phải đi bộ 10 km vào trường, mang theo rau, ít muối vừng, cá khô mặn để ăn dần, cuối tuần mới được về nhà ở dưới xã.


< Điểm trường tiểu học Lũng Luông nằm chon von trên đỉnh núi heo hút.

Chia sẻ với khó khăn của đồng bào, CLB đã trao tặng 10 suất quà cho những học sinh học giỏi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (mỗi suất quà trị giá 150.000 đồng); trao tặng 15 suất quà cho 15 gia đình khó khăn (mỗi suất 1 chiếc chăn bông và 10 kg gạo), CLB cũng ủng hộ 500 đầu sách vở cấp cho trường tiểu học và trung học cơ sở Thượng Nung.

Tối 19.1, CLB cùng đoàn xã Thượng Nung tổ chức chương trình giao lưu văn nghệ “Ấm áp vùng cao”. Trẻ em Thượng Nung nghe hát, diễn kịch say sưa. Các em cho hay đây là lần đầu tiên trong đời được xem một buổi biểu diễn văn nghệ.
Sáng ngày 20.1 các thành viên CLB đã dọn dẹp vệ sinh trường tiểu học và trung học cơ sở Thượng Nung, thắp hương tưởng niệm và dọn dẹp tại Đài tưởng niệm Anh hùng liệt sĩ xã Thượng Nung.


< Anh Lê Đình Nguyên (trái) - Chủ nhiệm CLB Nhiệt huyết trẻ - cho biết mỗi chuyến đi lên vùng cao, anh càng trăn trở, làm sao để có thể mang ấm áp tới tất cả trẻ em.

CLB Nhiệt huyết trẻ thành lập năm 2010, tập hợp những sinh viên, công chức đang công tác, học tập tại TP.Hà Nội, tổ chức những chương trình tình nguyện tiếp sức mùa thi, mùa đông yêu thương... tại nhiều tỉnh thành khó khăn trong cả nước.

Anh Lê Đình Nguyên, Chủ nhiệm CLB Nhiệt huyết trẻ cho biết chương trình mang áo ấm đến với bà con Thượng Nung nằm trong chương trình Mùa đông yêu thương. Trong thời gian tới, CLB nhiệt huyết trẻ sẽ tổ chức các chương trình tình nguyện mang áo ấm cho trẻ em nghèo ngoại thành Hà Nội, dạy học cho trẻ em các xóm bãi sông Hồng...
Korean Air! - Theo Thúy Hằng (Thanhnien)