Hiển thị các bài đăng có nhãn Xã xì trét. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Xã xì trét. Hiển thị tất cả bài đăng
Bắt đầu từ sáng sớm hôm nay, ngày 3-2-2013 (tức ngày 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn), đoàn nghệ nhân và người dân Bát Tràng tập hợp đông đủ tại đình làng Bát Tràng để chuẩn bị cho lễ rước ông Công - ông Táo về trung tâm thành phố Hà Nội.

Đây là lần đầu tiên Hà Nội có một lễ rước ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa được tổ chức.

Theo văn hóa dân gian, ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia đình Việt Nam sẽ làm lễ tiễn ông Công - ông Táo về chầu trời, gửi gắm niềm tin về một năm mới tốt lành sắp tới. Năm nay, trong khuôn khổ Hội hoa chợ Tết tôn vinh làng nghề và hàng nông sản chất lượng cao do Bộ VH-TT và DL phối hợp với UBND TP Hà Nội, Hội Nông dân TP Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức.

Người dân Hà Nội sẽ được chứng kiến một Lễ hội ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa. Đây cũng là dịp để người dân Hà Nội thêm hiểu hơn về  những nghi lễ truyền thống - những di sản phi vật thể có giá trị đang dần bị mai một.

Lễ hội dân gian ông Công - ông Táo do làng gốm cổ Bát Tràng thực hiện với các nghi thức dân gian, truyền thống, bao gồm nghi lễ rước ba “ông đầu rau” khổng lồ được làm bằng vàng mã, rước cá chép dài tới 3,5m làm từ giấy và đặc biệt là chiếc bếp cổ được làm từ trấu và đất sét với chiều dài 1m, chiều rộng 65cm và chiều cao 45cm. Cùng với đó là 12 mâm sản vật, lễ vật của địa phương gồm bánh chưng, bánh dày, bánh đậu xanh, kẹo sìu châu, bánh cu đơ, bánh cáy, bánh phu thê, bưởi ngọt, nhãn muộn, mâm ngũ quả…

Chuẩn bị lễ hội ông Công, ông Táo lần đầu tiên

Để có được lễ rước hoành tráng này, từ hàng tháng nay, khoảng 20 nghệ nhân và hàng trăm thợ giỏi cùng người dân làng nghề Bát Tràng đã phấn khởi bắt tay vào công tác chuẩn bị, mọi công việc được tiến hành tại đình làng Bát Tràng. Ai cũng háo hức, tự hào khi được đại diện cho nghệ nhân, thợ giỏi của các làng nghề trong cả nước tham gia vào việc chuẩn bị cho Lễ hội. Kỳ công nhất là công đoạn làm chiếc bếp bằng trấu và đất sét.

Từ trước đó cả tháng, đại diện Hiệp hội làng nghề Việt Nam và nghệ nhân làng nghề Bát Tràng đã khởi hành lên tận Đền Hùng (Phú Thọ) để làm lễ xin đất Đền Hùng và nước Giếng Ngọc đưa về đình làng Bát Tràng để làm lễ. Sau đó đất và nước này đượcc giao cho anh em thợ giỏi bắt tay vào làm chiếc bếp cổ. Khó nữa là nhiều năm trở lại đây, bà con đã chuyển hết việc nấu nướng sang bếp than tổ ong, bếp ga nên hầu như chẳng ai còn giữ chiếc bếp cổ, vì vậy các nghệ nhân phải lục lại khắp nơi để tìm một mô hình chiếc bếp cổ và chế tác một chiếc bếp khổng lồ giống y như thế từ trấu và đất sét.

Lễ rước sẽ bắt đầu từ làng gốm Bát Tràng với 9 xe kiệu dẫn đầu là cụ trưởng làng Bát Tràng, đội tế nam - tế nữ - sênh tiền và bà con, nghệ nhân làng Bát Tràng, dọc theo đê sông Hồng, qua cầu Chương Dương và các mâm lễ vật sẽ được dâng cúng tại các điểm: tượng đài Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, tượng đài vua Lê Thái Tổ… và dừng tại Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam nơi diễn ra hội hoa, chợ Tết.

May thay, Tết ông Táo vẫn còn!

Đưa ông Táo về trời, nhà nhà đang bận rộn từ sáng lo cúng lễ; nhưng có lẽ không nhiều người hiểu kỹ nguồn gốc, ý nghĩa của mỹ tục này, một tập quán ngày càng có giá trị sâu sắc trong đời sống hiện đại.

Vẫn bảo, đời sống khấm khá hơn, chẳng phải dành dụm chuẩn bị Tết từ… Hè, Thu như thời bao cấp, nhưng các bà các mẹ vẫn giữ nếp lo xa. Cứ ỉ bây giờ cái gì cũng sẵn, sát Tết mới sắm sanh thì lại cập rập hoặc đắt đỏ.

Xu hướng phát triển toàn cầu dẫn con người mật thiết thế giới tâm linh ngày càng rõ. Tôn giáo, tín ngưỡng trong nguyên bản ý nghĩa (không tính những phái sinh lệch lạc, biến tướng) cho chúng ta được nương tựa, chở che, hướng thiện.

Tết Nguyên đán có ý nghĩa với hơn 1,5 tỷ dân thế giới, người gốc Hoa, người Việt Nam thực sự sôi động từ ngày tiễn thần Bếp lên trời.
Từ đầu Chạp, qua Hàng Mã - một phố trong khu phố cổ (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) còn giữ nghề theo tên gọi, đã bày bán mũ, áo, hia, vàng thoi - đồ mã cúng Táo Công.

Tại Thủ đô, chợ lâu năm dần được thay thế bằng các siêu thị, trung tâm thương mại, không khí mua sắm ở chợ vẫn gần gũi đời sống nhân quần. Tại các chợ, hàng  mã cuối năm tấp  nập. Chợ Tết xưa có quầy tranh tết, trong đó có tranh Táo Quân. Quầy tranh Tết lâu không còn, chỉ có hàng trăm cửa hàng tranh chép. Tết đến gần, qua những hàng rong bán đào, gánh hàng mã ruổi khắp phố.
Cùng Tết Nguyên đán, Tết ông Công ông Táo là tập tục qua truyền khẩu ghi chép, có biến thể khác nhau. Theo nguồn tài liệu đáng tin cậy, thì tích này vắn tắt như sau:

Đôi vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau nhiều năm mà không thể có con, sinh ra cáu gắt, hay cãi cọ. Một hôm, người chồng nổi nóng đánh vợ, Thị Nhi bỏ nhà đi. Nàng nằm nghỉ gần một ngã tư đường, gặp người nông dân cày về, nàng đi theo và chàng chú ý. Đó là Phạm Lang, và họ thành vợ chồng. Trọng Cao bị bất hạnh, nếm trải nỗi cơ hàn (có tài liệu ghi Trọng Cao ân hận đi tìm vợ) phải đi ăn xin. Lang thang mãi, hết tiền, mệt và đói lả, Cao ngã xuống trước cửa, ngờ đâu là nhà Thị Nhi. Thị Nhi cho Trọng Cao ăn uống.

Người đàn ông khốn khổ ăn nhiều, say rượu, ngã lăn ra. Vì không muốn để chồng cũ chồng mới giáp mặt, Thị Nhi sai người khênh Trọng Cao giấu vào đống rơm (có phiên bản ghi Trọng Cao xin lỗi vợ và Thị Nhi ân hận đã lấy Phạm Lang, bảo Cao trốn vào đống rơm). Phạm Lang về, trước lúc đi ngủ, nhớ ra mai phải bón ruộng, nên ra đốt rơm lấy tro. Trọng Cao bị chết trong đó. Thị Nhi tự trừng phạt mình, nhảy vào lửa. Phạm Lang yêu vợ, thấy quá bất ngờ, nhảy tiếp vào đống rơm cháy, chết theo.

Linh hồn ba người lên Thượng đế - thấy ba người có nghĩa, Thượng đế sắc phong làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, mỗi người giữ một việc. Phạm Long làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi nhà cửa. Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi chợ búa.

Kết thúc của các tích, dù biến thể nào, nhân vật đều chết thảm. Truyện kể theo sách GS Nguyễn Văn Huyên còn có phần kết: “Anh đầy tớ thấy ông bà chủ chết bèn lao đầu vào lửa tỏ lòng trung thành. Thượng đế xúc động về tinh thần hỉ xả ấy, giao cho họ trông nom bếp núc của tất cả các gia đình trên thế gian và đánh giá mọi hành vi của con người. Tập tục cúng ông Táo cũng là tưởng nhớ tấn bi kịch gia đình. Hai hòn đá hai bên là ông (hai ông chồng), hòn phía trước là bà (người vợ). Viên cuội đặt trên than để nó không cháy quá nhanh, là hòn lộc (người đầy tớ trung thành).

Táo, nghĩa là bếp. Táo Quân Trung Hoa có truyền thuyết khác  nhau. Nền văn minh phong kiến Trung Hoa 5.000 năm đề cao gia trưởng, thứ bậc, trọng nam, nhưng sách Ngũ kinh di nghĩa cho Táo Thần là “lão phụ” (người đàn bà). Dù truyền thuyết, sự tích nào, ở quốc gia nào, thì lửa là may mắn và không sai khác là phần báo cáo hàng năm của những vị thần trong bếp mỗi nhà. Người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, có bài vị chữ Hán, cúng thịt, cá, rượu, bánh kẹo. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam Việt hoá huyền tích “Hai ông một bà” thành Thần Đất, thần Nhà, thần Bếp núc, gọi chung là Táo Quân, ông Táo do kết quả thuyết Tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi).

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, cách gọi “ông hóa” về ba vị, dù trong đó có 1 bà, cũng như cách gọi chung “ông đồ” (mà thực tế có cả các bà đồ) là ảnh hưởng của tinh thần nam quyền.

Ở nông thôn từ xa xưa, bếp được bắc bằng ba hòn đất (gạch), gọi là ba ông đầu rau. Ngày 23 tháng Chạp, đem 3 ông đầu rau cũ ra gốc cây đa, cây gạo, thay 3 ông mới, chỉ nổi lửa vào ngày 28 tại chỗ đầu rau mới, để cầu may. Thế “kiềng ba chân” từ ba ông đầu rau mà nên.

Chẳng phải phú quý sinh lễ nghĩa, mà quan niệm, “luật cúng” đã đúc kết nhiều đời thành tục cổ truyền. Ai chẳng muốn được báo cáo tốt, nên phải sửa soạn trang phục, phương tiện, lệ phí, cơm rượu mời các Táo, cúng bái nghiêm cẩn để Táo báo cáo Trời (Ngọc Hoàng) chuyện cả năm của nhà mình và phù trợ cho gia đình một năm may mắn. Mũ cho ông Táo có hai cánh chuồn, Táo bà không có. Tất cả đều có gương tròn nhỏ lóng lánh, dây kim tuyến sặc sỡ. Tùy năm, màu sắc, mũ, áo, hia của ông Táo ông Công thay đổi theo ngũ hành: Hành Kim - màu vàng; Hành Mộc: trắng; Hành Thủy: xanh; Hành Hoả: đỏ; Hành Thổ: đen. Năm Quý Tỵ này là Hành Thủy.

Cá chép để các thần cưỡi về trời, có nơi lại thay bằng cá chép hàng mã, cũng như lệ cúng giản lược chỉ còn mũ cánh chuồn cho Táo ông; trước Tết giờ còn mấy ai dựng cây nêu nữa?
Phú quý sinh lễ nghĩa. Nhiều người vì lệ cúng này, làm ảnh hưởng môi trường, vàng mã đốt quá nhiều, thả cá ra ao hồ thì quăng cả túi nilon gây tắc, ô nhiễm.

Táo miền Bắc cúng cá chép, ngụ ý cá hóa rồng đưa ông Táo về trời khi “phóng sinh” thả ra ao, hồ. Miền Trung, bà con cúng ngựa giấy có yên, cương đầy đủ. Miền Nam nhiều sông nước, mà có nơi cũng chẳng cúng cá. Lễ vật cúng có thể là lễ mặn (xôi, gà, chân giò luộc, canh măng, nấm), lễ chay (trầu cau, hoa quả) kèm theo vàng bạc mã để tiễn Táo công.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc: “Tết ông Công ông Táo thể hiện mối quan hệ của con người với dương trần và thiên đàng, với đất Mẹ và Thượng đế. Qua đây, ta thấy vai trò gia đình của xã hội truyền thống rất lớn. Thần Bếp - 3 ông đầu rau, biết hết mọi việc trong nhà, kể cả các bí mật, chuyện riêng tư. Mọi việc ta làm, sống thế nào ở trần gian này, Thượng đế sẽ biết hết, bởi ông Công ông Táo trong nhà ta nắm bắt và báo cáo. Điều này nhắc nhở người ta phải nhớ thuyết/luật Nhân - Quả, các giá trị đạo lý, ở hiền gặp lành.

Xã hội ngày càng phát triển, những lễ tục truyền thống ngày một giản lược, mai một. May thay Tết ông Công ông Táo vẫn còn. Đấy là cách để giữ được mối gắn bó giữa con người với con người, cuộc sống quanh mình, tính chịu trách nhiệm về cử chỉ, hành động, công việc của mình. Tôi lo lắng, liệu tập quán tốt đẹp này sẽ bị mất đi không?”. Những ai làm điều xấu khi nắm rõ vai trò các ông Táo, hẳn lòng không thanh thản. Đúng như J. Simon cho rằng: “Chỉ khi nào con người có tinh thần bổn phận, thì mới làm chủ định mệnh của mình”.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên và lâu năm nhất của nước Việt Nam từ ngày thành lập 2-9-1945 cho đến nay là GS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975). Ông chính là nhà dân tộc học hàng đầu của nước ta. Tên ông được đặt cho con đường thuộc quận Cầu Giấy, nơi toạ lạc Bảo tàng Dân tộc học mà con trai ông - PGS.TS Nguyễn Văn Huy (SN 1945) đã có nhiều đóng góp lớn từ ngày đầu thành lập đến khi về hưu (2008).

Bảo tàng này đã làm nên “cuộc cách mạng” khi không chỉ đóng khép với mô hình tư liệu, hiện vật, mà mở cửa sống động gần gũi. Người xem tham gia các trò chơi dân gian hay cách phong tục thể hiện theo nguyên bản cho mọi người chiêm ngưỡng, bảo tồn. Tết Nguyên đán là dịp các tập quán đẹp được thực hiện và phục dựng tại đây.

Gần 80 năm trước, năm 1934, tại Paris, chàng trai 29 tuổi Nguyễn Văn Huyên nhận bằng Tiến sĩ Dân tộc học tại Đại học Sorbonre. Trong cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” (một tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1”), dù tiêu đề là “góp phần”, nhưng GS Huyên đã viết rất kỹ, hay bằng kiến thức lịch sử và văn hóa đồ sộ.

Ông viết: “Về thực tế, việc chuẩn bị cho Tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng Thần Bếp, 23 tháng Chạp. Hôm đó, Táo Quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà ngài che chở và giám sát, lên Trời để tấu trình tỉ mỉ với Thượng đế về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua. Thần Bếp, Táo Quân thường hay bị lẫn với Thổ Công hay Thổ Địa, là thần đất trong nhà, bản thân thần này lệ thuộc vào thần Thành hoàng, tức thần đất của làng và thần Xã tắc là vị thần vua, hiện thân của đất nước.

Đôi khi, ý thức dân gian tìm cách phân biệt những thần này, nhưng sự phân biệt luôn luôn rất mơ hồ. Dù sao, khi người ta phân biệt được các thần đó, thì Thổ Công được trình bày trên bàn thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo Quân là bộ ba gồm một thần nữ có hai thần nam kèm bên. Tuy nhiên, người ta thường công nhận rằng Thổ Công được gộp trong bộ ba đó, gồm Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, theo lời dạy của các nhà nho. Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành kiềng đun bếp: hòn thứ nhất là đất nói chung, hòn thứ hai là đất trong nhà và hòn thứ ba là thần Bếp”.

Tết ông Công ông Táo như “lá cờ lệnh” phất lên khí Xuân ở tuần chót năm. Năm Nhâm Thìn lưu luyến, năm Quý Tỵ sát gần. Đúng 1 tuần nữa, là lễ trọng nhất: Lễ cúng Giao thừa, mâm cơm cúng tất niên quá đỗi thiêng liêng.

Tối 30 Tết, chương trình “Gặp nhau cuối năm” do Hãng phim Truyền hình Việt Nam thực hiện luôn được chú ý đón xem. Các nghệ sĩ đóng vai Táo các lĩnh vực báo cáo Ngọc Hoàng về hiện trạng năm qua. Được ghi hình hôm 25, 26, 27-1-2013 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, đặc thù của chương trình Táo Quân năm nay vẫn tiếp tục chất hài hước sâu cay, dám phê phán những bất ổn trong luật pháp và đời sống.

Dù ăn Tết to hay nhỏ, giản đơn hay linh đình, Tết nhà nào cũng nổi lửa. Đun điện, gạch, than, củi, bếp nào cũng có năng lượng, lửa ấm. Có lửa, là ông Công ông Táo lại thấy chúng ta. Hãy sống tốt, sống thiện, chăm chỉ mỗi ngày, để cuối năm thanh thản, ăn Tết an vui và đón năm mới nhiều hy vọng.

Tổng hợp từ ANTĐ, internet

Bắt đầu từ sáng sớm hôm nay, ngày 3-2-2013 (tức ngày 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn), đoàn nghệ nhân và người dân Bát Tràng tập hợp đông đủ tại đình làng Bát Tràng để chuẩn bị cho lễ rước ông Công - ông Táo về trung tâm thành phố Hà Nội.

Đây là lần đầu tiên Hà Nội có một lễ rước ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa được tổ chức.

Theo văn hóa dân gian, ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia đình Việt Nam sẽ làm lễ tiễn ông Công - ông Táo về chầu trời, gửi gắm niềm tin về một năm mới tốt lành sắp tới. Năm nay, trong khuôn khổ Hội hoa chợ Tết tôn vinh làng nghề và hàng nông sản chất lượng cao do Bộ VH-TT và DL phối hợp với UBND TP Hà Nội, Hội Nông dân TP Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức.

Người dân Hà Nội sẽ được chứng kiến một Lễ hội ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa. Đây cũng là dịp để người dân Hà Nội thêm hiểu hơn về  những nghi lễ truyền thống - những di sản phi vật thể có giá trị đang dần bị mai một.

Lễ hội dân gian ông Công - ông Táo do làng gốm cổ Bát Tràng thực hiện với các nghi thức dân gian, truyền thống, bao gồm nghi lễ rước ba “ông đầu rau” khổng lồ được làm bằng vàng mã, rước cá chép dài tới 3,5m làm từ giấy và đặc biệt là chiếc bếp cổ được làm từ trấu và đất sét với chiều dài 1m, chiều rộng 65cm và chiều cao 45cm. Cùng với đó là 12 mâm sản vật, lễ vật của địa phương gồm bánh chưng, bánh dày, bánh đậu xanh, kẹo sìu châu, bánh cu đơ, bánh cáy, bánh phu thê, bưởi ngọt, nhãn muộn, mâm ngũ quả…

Chuẩn bị lễ hội ông Công, ông Táo lần đầu tiên

Để có được lễ rước hoành tráng này, từ hàng tháng nay, khoảng 20 nghệ nhân và hàng trăm thợ giỏi cùng người dân làng nghề Bát Tràng đã phấn khởi bắt tay vào công tác chuẩn bị, mọi công việc được tiến hành tại đình làng Bát Tràng. Ai cũng háo hức, tự hào khi được đại diện cho nghệ nhân, thợ giỏi của các làng nghề trong cả nước tham gia vào việc chuẩn bị cho Lễ hội. Kỳ công nhất là công đoạn làm chiếc bếp bằng trấu và đất sét.

Từ trước đó cả tháng, đại diện Hiệp hội làng nghề Việt Nam và nghệ nhân làng nghề Bát Tràng đã khởi hành lên tận Đền Hùng (Phú Thọ) để làm lễ xin đất Đền Hùng và nước Giếng Ngọc đưa về đình làng Bát Tràng để làm lễ. Sau đó đất và nước này đượcc giao cho anh em thợ giỏi bắt tay vào làm chiếc bếp cổ. Khó nữa là nhiều năm trở lại đây, bà con đã chuyển hết việc nấu nướng sang bếp than tổ ong, bếp ga nên hầu như chẳng ai còn giữ chiếc bếp cổ, vì vậy các nghệ nhân phải lục lại khắp nơi để tìm một mô hình chiếc bếp cổ và chế tác một chiếc bếp khổng lồ giống y như thế từ trấu và đất sét.

Lễ rước sẽ bắt đầu từ làng gốm Bát Tràng với 9 xe kiệu dẫn đầu là cụ trưởng làng Bát Tràng, đội tế nam - tế nữ - sênh tiền và bà con, nghệ nhân làng Bát Tràng, dọc theo đê sông Hồng, qua cầu Chương Dương và các mâm lễ vật sẽ được dâng cúng tại các điểm: tượng đài Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, tượng đài vua Lê Thái Tổ… và dừng tại Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam nơi diễn ra hội hoa, chợ Tết.

May thay, Tết ông Táo vẫn còn!

Đưa ông Táo về trời, nhà nhà đang bận rộn từ sáng lo cúng lễ; nhưng có lẽ không nhiều người hiểu kỹ nguồn gốc, ý nghĩa của mỹ tục này, một tập quán ngày càng có giá trị sâu sắc trong đời sống hiện đại.

Vẫn bảo, đời sống khấm khá hơn, chẳng phải dành dụm chuẩn bị Tết từ… Hè, Thu như thời bao cấp, nhưng các bà các mẹ vẫn giữ nếp lo xa. Cứ ỉ bây giờ cái gì cũng sẵn, sát Tết mới sắm sanh thì lại cập rập hoặc đắt đỏ.

Xu hướng phát triển toàn cầu dẫn con người mật thiết thế giới tâm linh ngày càng rõ. Tôn giáo, tín ngưỡng trong nguyên bản ý nghĩa (không tính những phái sinh lệch lạc, biến tướng) cho chúng ta được nương tựa, chở che, hướng thiện.

Tết Nguyên đán có ý nghĩa với hơn 1,5 tỷ dân thế giới, người gốc Hoa, người Việt Nam thực sự sôi động từ ngày tiễn thần Bếp lên trời.
Từ đầu Chạp, qua Hàng Mã - một phố trong khu phố cổ (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) còn giữ nghề theo tên gọi, đã bày bán mũ, áo, hia, vàng thoi - đồ mã cúng Táo Công.

Tại Thủ đô, chợ lâu năm dần được thay thế bằng các siêu thị, trung tâm thương mại, không khí mua sắm ở chợ vẫn gần gũi đời sống nhân quần. Tại các chợ, hàng  mã cuối năm tấp  nập. Chợ Tết xưa có quầy tranh tết, trong đó có tranh Táo Quân. Quầy tranh Tết lâu không còn, chỉ có hàng trăm cửa hàng tranh chép. Tết đến gần, qua những hàng rong bán đào, gánh hàng mã ruổi khắp phố.
Cùng Tết Nguyên đán, Tết ông Công ông Táo là tập tục qua truyền khẩu ghi chép, có biến thể khác nhau. Theo nguồn tài liệu đáng tin cậy, thì tích này vắn tắt như sau:

Đôi vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau nhiều năm mà không thể có con, sinh ra cáu gắt, hay cãi cọ. Một hôm, người chồng nổi nóng đánh vợ, Thị Nhi bỏ nhà đi. Nàng nằm nghỉ gần một ngã tư đường, gặp người nông dân cày về, nàng đi theo và chàng chú ý. Đó là Phạm Lang, và họ thành vợ chồng. Trọng Cao bị bất hạnh, nếm trải nỗi cơ hàn (có tài liệu ghi Trọng Cao ân hận đi tìm vợ) phải đi ăn xin. Lang thang mãi, hết tiền, mệt và đói lả, Cao ngã xuống trước cửa, ngờ đâu là nhà Thị Nhi. Thị Nhi cho Trọng Cao ăn uống.

Người đàn ông khốn khổ ăn nhiều, say rượu, ngã lăn ra. Vì không muốn để chồng cũ chồng mới giáp mặt, Thị Nhi sai người khênh Trọng Cao giấu vào đống rơm (có phiên bản ghi Trọng Cao xin lỗi vợ và Thị Nhi ân hận đã lấy Phạm Lang, bảo Cao trốn vào đống rơm). Phạm Lang về, trước lúc đi ngủ, nhớ ra mai phải bón ruộng, nên ra đốt rơm lấy tro. Trọng Cao bị chết trong đó. Thị Nhi tự trừng phạt mình, nhảy vào lửa. Phạm Lang yêu vợ, thấy quá bất ngờ, nhảy tiếp vào đống rơm cháy, chết theo.

Linh hồn ba người lên Thượng đế - thấy ba người có nghĩa, Thượng đế sắc phong làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, mỗi người giữ một việc. Phạm Long làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi nhà cửa. Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi chợ búa.

Kết thúc của các tích, dù biến thể nào, nhân vật đều chết thảm. Truyện kể theo sách GS Nguyễn Văn Huyên còn có phần kết: “Anh đầy tớ thấy ông bà chủ chết bèn lao đầu vào lửa tỏ lòng trung thành. Thượng đế xúc động về tinh thần hỉ xả ấy, giao cho họ trông nom bếp núc của tất cả các gia đình trên thế gian và đánh giá mọi hành vi của con người. Tập tục cúng ông Táo cũng là tưởng nhớ tấn bi kịch gia đình. Hai hòn đá hai bên là ông (hai ông chồng), hòn phía trước là bà (người vợ). Viên cuội đặt trên than để nó không cháy quá nhanh, là hòn lộc (người đầy tớ trung thành).

Táo, nghĩa là bếp. Táo Quân Trung Hoa có truyền thuyết khác  nhau. Nền văn minh phong kiến Trung Hoa 5.000 năm đề cao gia trưởng, thứ bậc, trọng nam, nhưng sách Ngũ kinh di nghĩa cho Táo Thần là “lão phụ” (người đàn bà). Dù truyền thuyết, sự tích nào, ở quốc gia nào, thì lửa là may mắn và không sai khác là phần báo cáo hàng năm của những vị thần trong bếp mỗi nhà. Người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, có bài vị chữ Hán, cúng thịt, cá, rượu, bánh kẹo. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam Việt hoá huyền tích “Hai ông một bà” thành Thần Đất, thần Nhà, thần Bếp núc, gọi chung là Táo Quân, ông Táo do kết quả thuyết Tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi).

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, cách gọi “ông hóa” về ba vị, dù trong đó có 1 bà, cũng như cách gọi chung “ông đồ” (mà thực tế có cả các bà đồ) là ảnh hưởng của tinh thần nam quyền.

Ở nông thôn từ xa xưa, bếp được bắc bằng ba hòn đất (gạch), gọi là ba ông đầu rau. Ngày 23 tháng Chạp, đem 3 ông đầu rau cũ ra gốc cây đa, cây gạo, thay 3 ông mới, chỉ nổi lửa vào ngày 28 tại chỗ đầu rau mới, để cầu may. Thế “kiềng ba chân” từ ba ông đầu rau mà nên.

Chẳng phải phú quý sinh lễ nghĩa, mà quan niệm, “luật cúng” đã đúc kết nhiều đời thành tục cổ truyền. Ai chẳng muốn được báo cáo tốt, nên phải sửa soạn trang phục, phương tiện, lệ phí, cơm rượu mời các Táo, cúng bái nghiêm cẩn để Táo báo cáo Trời (Ngọc Hoàng) chuyện cả năm của nhà mình và phù trợ cho gia đình một năm may mắn. Mũ cho ông Táo có hai cánh chuồn, Táo bà không có. Tất cả đều có gương tròn nhỏ lóng lánh, dây kim tuyến sặc sỡ. Tùy năm, màu sắc, mũ, áo, hia của ông Táo ông Công thay đổi theo ngũ hành: Hành Kim - màu vàng; Hành Mộc: trắng; Hành Thủy: xanh; Hành Hoả: đỏ; Hành Thổ: đen. Năm Quý Tỵ này là Hành Thủy.

Cá chép để các thần cưỡi về trời, có nơi lại thay bằng cá chép hàng mã, cũng như lệ cúng giản lược chỉ còn mũ cánh chuồn cho Táo ông; trước Tết giờ còn mấy ai dựng cây nêu nữa?
Phú quý sinh lễ nghĩa. Nhiều người vì lệ cúng này, làm ảnh hưởng môi trường, vàng mã đốt quá nhiều, thả cá ra ao hồ thì quăng cả túi nilon gây tắc, ô nhiễm.

Táo miền Bắc cúng cá chép, ngụ ý cá hóa rồng đưa ông Táo về trời khi “phóng sinh” thả ra ao, hồ. Miền Trung, bà con cúng ngựa giấy có yên, cương đầy đủ. Miền Nam nhiều sông nước, mà có nơi cũng chẳng cúng cá. Lễ vật cúng có thể là lễ mặn (xôi, gà, chân giò luộc, canh măng, nấm), lễ chay (trầu cau, hoa quả) kèm theo vàng bạc mã để tiễn Táo công.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc: “Tết ông Công ông Táo thể hiện mối quan hệ của con người với dương trần và thiên đàng, với đất Mẹ và Thượng đế. Qua đây, ta thấy vai trò gia đình của xã hội truyền thống rất lớn. Thần Bếp - 3 ông đầu rau, biết hết mọi việc trong nhà, kể cả các bí mật, chuyện riêng tư. Mọi việc ta làm, sống thế nào ở trần gian này, Thượng đế sẽ biết hết, bởi ông Công ông Táo trong nhà ta nắm bắt và báo cáo. Điều này nhắc nhở người ta phải nhớ thuyết/luật Nhân - Quả, các giá trị đạo lý, ở hiền gặp lành.

Xã hội ngày càng phát triển, những lễ tục truyền thống ngày một giản lược, mai một. May thay Tết ông Công ông Táo vẫn còn. Đấy là cách để giữ được mối gắn bó giữa con người với con người, cuộc sống quanh mình, tính chịu trách nhiệm về cử chỉ, hành động, công việc của mình. Tôi lo lắng, liệu tập quán tốt đẹp này sẽ bị mất đi không?”. Những ai làm điều xấu khi nắm rõ vai trò các ông Táo, hẳn lòng không thanh thản. Đúng như J. Simon cho rằng: “Chỉ khi nào con người có tinh thần bổn phận, thì mới làm chủ định mệnh của mình”.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên và lâu năm nhất của nước Việt Nam từ ngày thành lập 2-9-1945 cho đến nay là GS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975). Ông chính là nhà dân tộc học hàng đầu của nước ta. Tên ông được đặt cho con đường thuộc quận Cầu Giấy, nơi toạ lạc Bảo tàng Dân tộc học mà con trai ông - PGS.TS Nguyễn Văn Huy (SN 1945) đã có nhiều đóng góp lớn từ ngày đầu thành lập đến khi về hưu (2008).

Bảo tàng này đã làm nên “cuộc cách mạng” khi không chỉ đóng khép với mô hình tư liệu, hiện vật, mà mở cửa sống động gần gũi. Người xem tham gia các trò chơi dân gian hay cách phong tục thể hiện theo nguyên bản cho mọi người chiêm ngưỡng, bảo tồn. Tết Nguyên đán là dịp các tập quán đẹp được thực hiện và phục dựng tại đây.

Gần 80 năm trước, năm 1934, tại Paris, chàng trai 29 tuổi Nguyễn Văn Huyên nhận bằng Tiến sĩ Dân tộc học tại Đại học Sorbonre. Trong cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” (một tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1”), dù tiêu đề là “góp phần”, nhưng GS Huyên đã viết rất kỹ, hay bằng kiến thức lịch sử và văn hóa đồ sộ.

Ông viết: “Về thực tế, việc chuẩn bị cho Tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng Thần Bếp, 23 tháng Chạp. Hôm đó, Táo Quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà ngài che chở và giám sát, lên Trời để tấu trình tỉ mỉ với Thượng đế về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua. Thần Bếp, Táo Quân thường hay bị lẫn với Thổ Công hay Thổ Địa, là thần đất trong nhà, bản thân thần này lệ thuộc vào thần Thành hoàng, tức thần đất của làng và thần Xã tắc là vị thần vua, hiện thân của đất nước.

Đôi khi, ý thức dân gian tìm cách phân biệt những thần này, nhưng sự phân biệt luôn luôn rất mơ hồ. Dù sao, khi người ta phân biệt được các thần đó, thì Thổ Công được trình bày trên bàn thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo Quân là bộ ba gồm một thần nữ có hai thần nam kèm bên. Tuy nhiên, người ta thường công nhận rằng Thổ Công được gộp trong bộ ba đó, gồm Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, theo lời dạy của các nhà nho. Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành kiềng đun bếp: hòn thứ nhất là đất nói chung, hòn thứ hai là đất trong nhà và hòn thứ ba là thần Bếp”.

Tết ông Công ông Táo như “lá cờ lệnh” phất lên khí Xuân ở tuần chót năm. Năm Nhâm Thìn lưu luyến, năm Quý Tỵ sát gần. Đúng 1 tuần nữa, là lễ trọng nhất: Lễ cúng Giao thừa, mâm cơm cúng tất niên quá đỗi thiêng liêng.

Tối 30 Tết, chương trình “Gặp nhau cuối năm” do Hãng phim Truyền hình Việt Nam thực hiện luôn được chú ý đón xem. Các nghệ sĩ đóng vai Táo các lĩnh vực báo cáo Ngọc Hoàng về hiện trạng năm qua. Được ghi hình hôm 25, 26, 27-1-2013 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, đặc thù của chương trình Táo Quân năm nay vẫn tiếp tục chất hài hước sâu cay, dám phê phán những bất ổn trong luật pháp và đời sống.

Dù ăn Tết to hay nhỏ, giản đơn hay linh đình, Tết nhà nào cũng nổi lửa. Đun điện, gạch, than, củi, bếp nào cũng có năng lượng, lửa ấm. Có lửa, là ông Công ông Táo lại thấy chúng ta. Hãy sống tốt, sống thiện, chăm chỉ mỗi ngày, để cuối năm thanh thản, ăn Tết an vui và đón năm mới nhiều hy vọng.

Tổng hợp từ ANTĐ, internet

Tết đến nhiều người về quê thăm nhà, tụ họp gia đình sau một năm vật lộn với cuộc sống. Gần đây xuất hiện khuynh hướng đem cả gia đình đi du xuân, vừa trọn nghĩa sum vầy lại vừa được nghỉ ngơi và rong chơi ngày xuân...

Muôn nẻo đường Xuân

Bà Trần Bạch Tuyết (80 tuổi, giáo viên về hưu) đã lên chức cụ từ nhiều năm nay. Thế nhưng hiếm tết nào hàng xóm lại không gặp cảnh bà tất bật balô cùng gia đình cô con gái và các cháu ngoại lên đường du xuân. Xa thì đón tết ở Hà Nội để trải nghiệm cái lạnh miền Bắc, gần thì chọn một bãi biển đầy nắng giữa miền Trung.

Cô Hoàng Lan (55 tuổi), con gái bà Tuyết, tâm sự: “Con cháu trong nhà đứa đi học xa, người thì có gia đình riêng, kẻ Bắc người Nam nên một năm chỉ có dịp tết là dịp sum họp đầy đủ mọi người. Cứ đến mùng hai tết, sau khi lo xong các thủ tục cúng ông bà tổ tiên là đại gia đình chúng tôi bao gồm bà, bố mẹ và các cháu lại cùng lái xe du xuân xa nhà”.

Khẳng định đã “không còn ăn tết ở nhà từ nhiều năm nay”, chị Trần Hồng Ngọc (29 tuổi, nhân viên ngân hàng) cho hay dù đang sinh sống ở TP.HCM nhưng năm nào cũng bay về Hà Nội rồi đưa cả gia đình gồm bố mẹ, em trai đi ăn tết xa. Chị giải thích: “Cuộc sống ngày càng đầy đủ, mọi người biết hưởng thụ nhiều hơn. Cứ tết đến, cả nhà chúng tôi lại lên kế hoạch chọn một điểm đến trong khu vực châu Á rồi cùng nhau lên đường ngao du”.

Với nhiều gia đình, du lịch ngày xuân còn là một cách để ngày tết kéo dài hơn với những niềm vui của năm mới. Ở tuổi ông bà, vợ chồng bác Lê Thanh Tuấn và Nguyễn Thị Phi (58 tuổi, giáo viên nghỉ hưu) cho rằng sau những ngày cận tết nhộp nhịp mua sắm, trang hoàng nhà cửa, bàn thờ, đón khoảnh khắc giao mùa giữa năm mới và năm cũ, rồi mùng một họp mặt gia đình… thì tết gần như đã hết khi mọi thứ trở lại như cũ.

Để tận dụng những ngày nghỉ còn lại, hai vợ chồng bác thường “lập nhóm” với gia đình hai cô con gái đang sinh sống ở Úc để cùng tận hưởng không khí tết ở một nơi xa lạ. “Đi đến đâu là chúng tôi chụp hình, gửi email cho người thân ở nhà, thỉnh thoảng còn gọi điện thoại để “truyền hình trực tiếp” không khí lễ hội ở nơi chúng tôi có mặt. Những lúc như vậy người thân cũng thấy rất thú vị và hiểu rằng không phải vì vui thú bản thân mà chúng tôi quên họ”.

Thói quen “đón xuân xa” cũng lan qua rất nhiều người trẻ độc thân đam mê du lịch bụi. Bất chấp những “cặp mắt khác lạ” hay “lời xầm xì” của người xung quanh, cứ đến giao thừa là anh Nguyễn Chí Linh (nhân viên truyền thông) lại bước lên một chuyến bay và nối dài danh sách gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ đã chu du. Vừa hoàn thành chuyến đi Pakistan, Linh đã lên ngay kế hoạch du lịch bụi đến Kenya và Tanzania vào Tết Quý Tỵ.

“Với tôi, tết là ngày lễ truyền thống không thể thiếu của người Việt Nam, nó mang một cảm xúc rất khó tả. Nhưng không phải nhất thiết trong ngày đó mới thể hiện tình cảm của mình. Điều quan trọng là cái tâm của mỗi người trong những ngày còn lại của năm”, anh nói.

Thèm da diết một lát bánh chưng

Du lịch ngày tết được đánh giá là có phần đắt đỏ hơn ngày thường. Nhưng bù lại, xuân trên những cung đường trở nên đặc biệt bởi “Một năm có lẽ tết là mùa đẹp nhất vì đường phố được trang hoàng lộng lẫy hơn, khách sạn nhà hàng cũng đón tiếp khách nhiệt tình hơn” - cô Hoàng Lan giải thích. Nhờ những chuyến đi xa như vậy, những bữa ăn ở nhà hàng đã trở thành cơ hội quây quần gia đình, mọi người hỏi han nhau sau một năm không gặp, đồng thời có cơ hội đi du lịch vui thú cùng nhau.

Du lịch tâm linh, thăm viếng chùa chiền cũng là một phần không thể thiếu trong chuyến du lịch bụi ngày xuân, dù ở trong nước hay nước ngoài. Gia đình chị Trần Hồng Ngọc đã từng có một chuyến du xuân đáng nhớ ở Indonesia. Gia đình chị đi Bali mùa tết năm 2010, cả nhà thuê hai xe máy rồi cùng nhau lái đến các ngôi đền linh thiêng như Tanah Lot, Besalik…

“Ngoài tết ra thì thật hiếm có cơ hội nào trong năm để làm những việc như vậy. Đi xa nhiều sẽ thiếu không khí tết, thậm chí có lúc đang ở nước ngoài cũng thèm da diết củ dưa hành và lát bánh chưng, nhưng chúng tôi luôn cảm nhận được không khí vui vẻ, nhộn nhịp ở một nơi hoàn toàn mới mẻ” - chị Ngọc chia sẻ.

Những gia đình có “thâm niên” đón xuân xa nhà thì rỉ tai nhau bí quyết “mang tết lên đường đi” bằng cách không bao giờ quên nhét vào balô một chiếc bánh tét hay gói mứt cổ truyền.

“Ngày tết đến, tôi thường đặt những đòn bánh tét hay bánh chưng ngon, gói cho thật chặt và chiên bằng cách lăn nước những chiếc lạp xưởng hay làm thịt muối cho vào lọ - anh Nguyễn Chí Linh kể về thực phẩm du xuân của mình - Bạn nhớ mang theo một ít mứt dừa hay mứt gừng để có thể ngồi ở quán cà phê nào đó nhấm nháp cùng với trà. Hạt dưa hay hạt bí cũng là món ăn vặt lý tưởng trên đoạn đường di chuyển bằng xe buýt hay tàu lửa”.

Theo các công ty dịch vụ cho thuê xe du lịch, những xe loại 16-29 chỗ đã được khách đặt thuê gần hết. Giá thuê xe chỉ nhỉnh hơn so với dịp tết năm ngoái 10-15%. Đại diện Công ty Tấn An Gia (Q.Tân Phú, TP.HCM), đơn vị chuyên cho thuê các loại xe, cho biết hiện nay xu hướng các gia đình tập họp với nhau cùng tổ chức tour riêng khá phổ biến vì tiết kiệm được nhiều chi phí. Những dòng xe cỡ nhỏ phục vụ nhóm gia đình, đặc biệt dòng 16 chỗ, thường hết trước.

Theo khảo sát tại một số công ty du lịch ở TP.HCM, hầu hết đều linh động để phục vụ đối tượng khách gia đình. Nguyễn Minh Mẫn - trưởng phòng truyền thông Công ty du lịch Vietravel - cho biết năm nay nhu cầu các nhóm gia đình du lịch tết tăng khá mạnh. Thay vì đi ghép với những đoàn khách khác, họ chủ động kết hợp lại với nhau đi tour. Để đáp ứng nhu cầu này, công ty có đội ngũ riêng nhằm tư vấn và thiết kế tour cho đối tượng khách này. Tuy nhiên, tối thiểu mỗi đoàn phải có khoảng 15 khách mới có được giá tour rẻ. Nếu lượng khách nhỏ hơn, công ty vẫn đáp ứng nhưng sẽ có mức giá phù hợp riêng.

Du lịch, GO! - Theo TTCN, internet

Tết đến nhiều người về quê thăm nhà, tụ họp gia đình sau một năm vật lộn với cuộc sống. Gần đây xuất hiện khuynh hướng đem cả gia đình đi du xuân, vừa trọn nghĩa sum vầy lại vừa được nghỉ ngơi và rong chơi ngày xuân...

Muôn nẻo đường Xuân

Bà Trần Bạch Tuyết (80 tuổi, giáo viên về hưu) đã lên chức cụ từ nhiều năm nay. Thế nhưng hiếm tết nào hàng xóm lại không gặp cảnh bà tất bật balô cùng gia đình cô con gái và các cháu ngoại lên đường du xuân. Xa thì đón tết ở Hà Nội để trải nghiệm cái lạnh miền Bắc, gần thì chọn một bãi biển đầy nắng giữa miền Trung.

Cô Hoàng Lan (55 tuổi), con gái bà Tuyết, tâm sự: “Con cháu trong nhà đứa đi học xa, người thì có gia đình riêng, kẻ Bắc người Nam nên một năm chỉ có dịp tết là dịp sum họp đầy đủ mọi người. Cứ đến mùng hai tết, sau khi lo xong các thủ tục cúng ông bà tổ tiên là đại gia đình chúng tôi bao gồm bà, bố mẹ và các cháu lại cùng lái xe du xuân xa nhà”.

Khẳng định đã “không còn ăn tết ở nhà từ nhiều năm nay”, chị Trần Hồng Ngọc (29 tuổi, nhân viên ngân hàng) cho hay dù đang sinh sống ở TP.HCM nhưng năm nào cũng bay về Hà Nội rồi đưa cả gia đình gồm bố mẹ, em trai đi ăn tết xa. Chị giải thích: “Cuộc sống ngày càng đầy đủ, mọi người biết hưởng thụ nhiều hơn. Cứ tết đến, cả nhà chúng tôi lại lên kế hoạch chọn một điểm đến trong khu vực châu Á rồi cùng nhau lên đường ngao du”.

Với nhiều gia đình, du lịch ngày xuân còn là một cách để ngày tết kéo dài hơn với những niềm vui của năm mới. Ở tuổi ông bà, vợ chồng bác Lê Thanh Tuấn và Nguyễn Thị Phi (58 tuổi, giáo viên nghỉ hưu) cho rằng sau những ngày cận tết nhộp nhịp mua sắm, trang hoàng nhà cửa, bàn thờ, đón khoảnh khắc giao mùa giữa năm mới và năm cũ, rồi mùng một họp mặt gia đình… thì tết gần như đã hết khi mọi thứ trở lại như cũ.

Để tận dụng những ngày nghỉ còn lại, hai vợ chồng bác thường “lập nhóm” với gia đình hai cô con gái đang sinh sống ở Úc để cùng tận hưởng không khí tết ở một nơi xa lạ. “Đi đến đâu là chúng tôi chụp hình, gửi email cho người thân ở nhà, thỉnh thoảng còn gọi điện thoại để “truyền hình trực tiếp” không khí lễ hội ở nơi chúng tôi có mặt. Những lúc như vậy người thân cũng thấy rất thú vị và hiểu rằng không phải vì vui thú bản thân mà chúng tôi quên họ”.

Thói quen “đón xuân xa” cũng lan qua rất nhiều người trẻ độc thân đam mê du lịch bụi. Bất chấp những “cặp mắt khác lạ” hay “lời xầm xì” của người xung quanh, cứ đến giao thừa là anh Nguyễn Chí Linh (nhân viên truyền thông) lại bước lên một chuyến bay và nối dài danh sách gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ đã chu du. Vừa hoàn thành chuyến đi Pakistan, Linh đã lên ngay kế hoạch du lịch bụi đến Kenya và Tanzania vào Tết Quý Tỵ.

“Với tôi, tết là ngày lễ truyền thống không thể thiếu của người Việt Nam, nó mang một cảm xúc rất khó tả. Nhưng không phải nhất thiết trong ngày đó mới thể hiện tình cảm của mình. Điều quan trọng là cái tâm của mỗi người trong những ngày còn lại của năm”, anh nói.

Thèm da diết một lát bánh chưng

Du lịch ngày tết được đánh giá là có phần đắt đỏ hơn ngày thường. Nhưng bù lại, xuân trên những cung đường trở nên đặc biệt bởi “Một năm có lẽ tết là mùa đẹp nhất vì đường phố được trang hoàng lộng lẫy hơn, khách sạn nhà hàng cũng đón tiếp khách nhiệt tình hơn” - cô Hoàng Lan giải thích. Nhờ những chuyến đi xa như vậy, những bữa ăn ở nhà hàng đã trở thành cơ hội quây quần gia đình, mọi người hỏi han nhau sau một năm không gặp, đồng thời có cơ hội đi du lịch vui thú cùng nhau.

Du lịch tâm linh, thăm viếng chùa chiền cũng là một phần không thể thiếu trong chuyến du lịch bụi ngày xuân, dù ở trong nước hay nước ngoài. Gia đình chị Trần Hồng Ngọc đã từng có một chuyến du xuân đáng nhớ ở Indonesia. Gia đình chị đi Bali mùa tết năm 2010, cả nhà thuê hai xe máy rồi cùng nhau lái đến các ngôi đền linh thiêng như Tanah Lot, Besalik…

“Ngoài tết ra thì thật hiếm có cơ hội nào trong năm để làm những việc như vậy. Đi xa nhiều sẽ thiếu không khí tết, thậm chí có lúc đang ở nước ngoài cũng thèm da diết củ dưa hành và lát bánh chưng, nhưng chúng tôi luôn cảm nhận được không khí vui vẻ, nhộn nhịp ở một nơi hoàn toàn mới mẻ” - chị Ngọc chia sẻ.

Những gia đình có “thâm niên” đón xuân xa nhà thì rỉ tai nhau bí quyết “mang tết lên đường đi” bằng cách không bao giờ quên nhét vào balô một chiếc bánh tét hay gói mứt cổ truyền.

“Ngày tết đến, tôi thường đặt những đòn bánh tét hay bánh chưng ngon, gói cho thật chặt và chiên bằng cách lăn nước những chiếc lạp xưởng hay làm thịt muối cho vào lọ - anh Nguyễn Chí Linh kể về thực phẩm du xuân của mình - Bạn nhớ mang theo một ít mứt dừa hay mứt gừng để có thể ngồi ở quán cà phê nào đó nhấm nháp cùng với trà. Hạt dưa hay hạt bí cũng là món ăn vặt lý tưởng trên đoạn đường di chuyển bằng xe buýt hay tàu lửa”.

Theo các công ty dịch vụ cho thuê xe du lịch, những xe loại 16-29 chỗ đã được khách đặt thuê gần hết. Giá thuê xe chỉ nhỉnh hơn so với dịp tết năm ngoái 10-15%. Đại diện Công ty Tấn An Gia (Q.Tân Phú, TP.HCM), đơn vị chuyên cho thuê các loại xe, cho biết hiện nay xu hướng các gia đình tập họp với nhau cùng tổ chức tour riêng khá phổ biến vì tiết kiệm được nhiều chi phí. Những dòng xe cỡ nhỏ phục vụ nhóm gia đình, đặc biệt dòng 16 chỗ, thường hết trước.

Theo khảo sát tại một số công ty du lịch ở TP.HCM, hầu hết đều linh động để phục vụ đối tượng khách gia đình. Nguyễn Minh Mẫn - trưởng phòng truyền thông Công ty du lịch Vietravel - cho biết năm nay nhu cầu các nhóm gia đình du lịch tết tăng khá mạnh. Thay vì đi ghép với những đoàn khách khác, họ chủ động kết hợp lại với nhau đi tour. Để đáp ứng nhu cầu này, công ty có đội ngũ riêng nhằm tư vấn và thiết kế tour cho đối tượng khách này. Tuy nhiên, tối thiểu mỗi đoàn phải có khoảng 15 khách mới có được giá tour rẻ. Nếu lượng khách nhỏ hơn, công ty vẫn đáp ứng nhưng sẽ có mức giá phù hợp riêng.

Du lịch, GO! - Theo TTCN, internet

Nhắc đến những chuyến du lịch hấp dẫn, ít ai kể về kỷ niệm với bác tài – lái xe chở khách trên những chặng đường gập ghềnh. Bài viết sẽ hé lộ câu chuyện kỳ thú của một bác tài (CTy vận tải Thiên Thảo Nguyên) để các bạn cùng trải nghiệm nhé!

< Cảnh hồ Ba Bể.

Chuyến đi Đông Bắc được khởi hành từ Hà Nội vào mùa đông lạnh giá kéo dài 7 ngày đêm. Đảm nhiệm một con xe mới, chở 17 khách, bác tài tên là Nguyễn Đức Văn với kinh nghiệm 13 năm kể lại chuyến hành trình dài và gian nan, nhưng cũng hết sức đáng nhớ của mình.

Đó là 17 vị khách đến từ Pháp muốn đi thăm lại di tích hồ Ba Bể ngày xưa. Xe bắt đầu lăn bánh từ Hà Nội đến hồ Ba Bể, dừng chân tại một làng bản. Ngày hôm sau, bác tài đưa đoàn khách đi Cao Bằng, thăm hang Bắc Pó, rồi đi đến thác Bản Dốc,…. Lạng Sơn và cuối cùng tham quan vịnh Hạ Long.

Với khách du lịch, mọi chuyện diễn ra thật vô cùng lý thú và nhẹ nhàng, nhưng với công việc âm thầm, lặng lẽ của người cầm lái vận chuyển khách, thì không chỉ có vậy. Chúng ta hãy cùng quay ngược lại cuộc hành trình và nghe bác tài kể.

“Cách đây bốn năm, chặng đường đi từ Ba Bể đến Cao Bằng rất hiểm trở, đèo dốc, khó đi, đặc biệt vào mùa đông có nhiều sương mù. Ngay cả khách ngồi phía sau cũng lo sợ trước thời tiết dày đặc sương mù như thế này, nên họ đã yêu cầu tôi dừng xe để đợi khi ngớt mưa và sương sẽ đi tiếp.”, anh Văn kể.

Nhưng với lịch trình đã lên sẵn, bác tài chỉ dừng lại khoảng 5 phút và động viên hành khách, anh có thể vượt qua được chặng đường này bằng kinh nghiệm lâu năm của mình. Cuối cùng anh đã đưa khách đến nơi an toàn và đúng giờ theo như chương trình.

Trên đoạn đường từ Cao Bằng về Lạng Sơn, quãng đường dài gần 20km là Đông Khê và Thất Khê, đoạn đường mà theo như anh Văn nói “không lái xe nào chở khách đi du lịch Đông Bắc lại không biết”, một bên là vực sâu, một bên là núi rất khó đi và thường trơn trượt do trời mưa vào mùa đông.

Biết rằng chặng đường khó khăn vào mùa đông, bác tài đã phải chuẩn bị trước xà beng, cuốc xẻng, dây cáp kéo xe… để xử lý các vấn đề gặp phải trên trên đoạn đường Đông Khê, Thất Khê này.

“Suốt chặng đường ấy, dự đoán trước tình hình, tôi liên tục phải xuống xe dùng xà beng, cuốc, xẻng đào và xúc bỏ đi phần đất trơn lầy, để trơ ra phần đất cứng, thì xe mới qua được. Đó là còn chưa tính có đoạn nào trơn quá xe không đi lên được là tôi phải nhờ xe đi ngược chiều kéo xe mình bằng dây cáp đã chuẩn bị trước.”, anh Văn nhăn mặt, lắc đầu kể lại.

Tuy nhiên, “tôi vẫn có nụ cười rạng rỡ như thường lệ chứ không phải là một nụ cười gượng gạo”. Bác tài phân trần: “…những lúc khó khăn như thế, lái xe như chúng tôi phải rất bình tĩnh để vượt qua được chặng đường đó. Có lúc khách không biết được lái xe đã vượt qua khó khăn thế nào.”

Chắc chắn rằng phải có kinh nghiệm và bản lĩnh lắm lái xe mới vững vàng xử lý được mọi vấn đề, để vượt qua chặng đường khó khăn, kịp thời gian cho cuộc hành trình.

Có lúc giữa buổi đêm, khách bị đau bụng phải đi cấp cứu do khác biệt về ẩm thực, anh Văn đã có mặt kịp thời đưa bệnh nhân đi bệnh viện ngay trong đêm, cách nơi ở khoảng 10km.

Một trường hợp khác, khách bị thất lạc hành lý do để nhầm lên xe khác cùng màu. Bác tài Văn kể lại đó là 2 vị khách Indonesia bị thất lạc hành lý. Với trách nhiệm của người lái xe và óc phán đoán của người có bề dày kinh nghiệm, bác đã đi hỏi cụ thể, tìm hiểu vị trí của xe, thời gian để hành lý lên xe, nên bác Văn đã tìm ra được chiếc xe mà hành lý của khách bị thất lạc.

Nói về niềm đam mê với nghề, anh Văn cho rằng do “Có trách nhiệm với nghề thì yêu nghề thôi" và “yêu nghề thì gắn với trách nhiệm”, sau những chuyến đi dài ngày, nhận được những lời cám ơn, cảm kích của khách, tôi thực sự hạnh phúc". Anh Văn thổ lộ thêm “Nghề lái xe giúp tôi được gặp nhiều người, tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau, học hỏi được nhiều từ văn hóa của họ. Công việc này cũng đưa tôi đến nhiều nơi, danh lam, thắng cảnh đẹp”.

Theo DulichVN, internet

Nhắc đến những chuyến du lịch hấp dẫn, ít ai kể về kỷ niệm với bác tài – lái xe chở khách trên những chặng đường gập ghềnh. Bài viết sẽ hé lộ câu chuyện kỳ thú của một bác tài (CTy vận tải Thiên Thảo Nguyên) để các bạn cùng trải nghiệm nhé!

< Cảnh hồ Ba Bể.

Chuyến đi Đông Bắc được khởi hành từ Hà Nội vào mùa đông lạnh giá kéo dài 7 ngày đêm. Đảm nhiệm một con xe mới, chở 17 khách, bác tài tên là Nguyễn Đức Văn với kinh nghiệm 13 năm kể lại chuyến hành trình dài và gian nan, nhưng cũng hết sức đáng nhớ của mình.

Đó là 17 vị khách đến từ Pháp muốn đi thăm lại di tích hồ Ba Bể ngày xưa. Xe bắt đầu lăn bánh từ Hà Nội đến hồ Ba Bể, dừng chân tại một làng bản. Ngày hôm sau, bác tài đưa đoàn khách đi Cao Bằng, thăm hang Bắc Pó, rồi đi đến thác Bản Dốc,…. Lạng Sơn và cuối cùng tham quan vịnh Hạ Long.

Với khách du lịch, mọi chuyện diễn ra thật vô cùng lý thú và nhẹ nhàng, nhưng với công việc âm thầm, lặng lẽ của người cầm lái vận chuyển khách, thì không chỉ có vậy. Chúng ta hãy cùng quay ngược lại cuộc hành trình và nghe bác tài kể.

“Cách đây bốn năm, chặng đường đi từ Ba Bể đến Cao Bằng rất hiểm trở, đèo dốc, khó đi, đặc biệt vào mùa đông có nhiều sương mù. Ngay cả khách ngồi phía sau cũng lo sợ trước thời tiết dày đặc sương mù như thế này, nên họ đã yêu cầu tôi dừng xe để đợi khi ngớt mưa và sương sẽ đi tiếp.”, anh Văn kể.

Nhưng với lịch trình đã lên sẵn, bác tài chỉ dừng lại khoảng 5 phút và động viên hành khách, anh có thể vượt qua được chặng đường này bằng kinh nghiệm lâu năm của mình. Cuối cùng anh đã đưa khách đến nơi an toàn và đúng giờ theo như chương trình.

Trên đoạn đường từ Cao Bằng về Lạng Sơn, quãng đường dài gần 20km là Đông Khê và Thất Khê, đoạn đường mà theo như anh Văn nói “không lái xe nào chở khách đi du lịch Đông Bắc lại không biết”, một bên là vực sâu, một bên là núi rất khó đi và thường trơn trượt do trời mưa vào mùa đông.

Biết rằng chặng đường khó khăn vào mùa đông, bác tài đã phải chuẩn bị trước xà beng, cuốc xẻng, dây cáp kéo xe… để xử lý các vấn đề gặp phải trên trên đoạn đường Đông Khê, Thất Khê này.

“Suốt chặng đường ấy, dự đoán trước tình hình, tôi liên tục phải xuống xe dùng xà beng, cuốc, xẻng đào và xúc bỏ đi phần đất trơn lầy, để trơ ra phần đất cứng, thì xe mới qua được. Đó là còn chưa tính có đoạn nào trơn quá xe không đi lên được là tôi phải nhờ xe đi ngược chiều kéo xe mình bằng dây cáp đã chuẩn bị trước.”, anh Văn nhăn mặt, lắc đầu kể lại.

Tuy nhiên, “tôi vẫn có nụ cười rạng rỡ như thường lệ chứ không phải là một nụ cười gượng gạo”. Bác tài phân trần: “…những lúc khó khăn như thế, lái xe như chúng tôi phải rất bình tĩnh để vượt qua được chặng đường đó. Có lúc khách không biết được lái xe đã vượt qua khó khăn thế nào.”

Chắc chắn rằng phải có kinh nghiệm và bản lĩnh lắm lái xe mới vững vàng xử lý được mọi vấn đề, để vượt qua chặng đường khó khăn, kịp thời gian cho cuộc hành trình.

Có lúc giữa buổi đêm, khách bị đau bụng phải đi cấp cứu do khác biệt về ẩm thực, anh Văn đã có mặt kịp thời đưa bệnh nhân đi bệnh viện ngay trong đêm, cách nơi ở khoảng 10km.

Một trường hợp khác, khách bị thất lạc hành lý do để nhầm lên xe khác cùng màu. Bác tài Văn kể lại đó là 2 vị khách Indonesia bị thất lạc hành lý. Với trách nhiệm của người lái xe và óc phán đoán của người có bề dày kinh nghiệm, bác đã đi hỏi cụ thể, tìm hiểu vị trí của xe, thời gian để hành lý lên xe, nên bác Văn đã tìm ra được chiếc xe mà hành lý của khách bị thất lạc.

Nói về niềm đam mê với nghề, anh Văn cho rằng do “Có trách nhiệm với nghề thì yêu nghề thôi" và “yêu nghề thì gắn với trách nhiệm”, sau những chuyến đi dài ngày, nhận được những lời cám ơn, cảm kích của khách, tôi thực sự hạnh phúc". Anh Văn thổ lộ thêm “Nghề lái xe giúp tôi được gặp nhiều người, tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau, học hỏi được nhiều từ văn hóa của họ. Công việc này cũng đưa tôi đến nhiều nơi, danh lam, thắng cảnh đẹp”.

Theo DulichVN, internet

(Tiếp theo)
Những ngày lang thang ở bản Thín (Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), tôi nhận thấy rằng, đồng bào trong bản không ưa loài trăn, vì trăn xơi quá nhiều gà, vịt, lợn, dê của đồng bào.

Bản Thín là thung lũng bị kẹp giữa cao nguyên Mộc Châu và dãy Pha Luông huyền thoại. Mộc Châu quanh năm chìm trong mây mù, mùa Đông càng lạnh giá. Dãy Pha Luông cao vời vợi cũng lạnh cóng, trong khi bản Thín luôn ấm áp vào mùa Đông, nên trăn tụ cả về đây.
Xung quanh bản Thín có nhiều quả núi thấp, toàn núi đá, cây cối rậm rạp, hang hốc khắp nơi, là lãnh địa ẩn náu của loài trăn. Đồng bào Thái và Mường ở vùng đất này vừa kính trọng, vừa sợ, lại vừa ghét loài trăn.

Trăn cứu dân bản


< Điểm trưởng bản Thín.

Đồng bào kính trọng trăn, vì trong bản lưu truyền một huyền thoại vừa đẹp, vừa bí ẩn về loài trăn cứu người. Trưởng bản Vì Văn Đoài cho biết, độ chục năm trước, khi con đường vào Xuân Nha còn là đường mòn, bản Thín còn chìm trong đại ngàn hoang thẳm. Chỉ bước chân ra khỏi bản, là đã lạc vào rừng già. Thú hoang, trăn rắn quanh bản rất nhiều.

Bản Thín có 74 hộ dân, với hai dân tộc là Thái và Mường sinh sống. Người Mường mới di cư đến đây từ những năm 70 thế kỷ trước, nhưng người Thái đã định cư ở đất này từ lâu. Người già trong bản, hiểu nhiều truyền thuyết là cụ Vì Văn Đứng. Đứng bên mép ngôi nhà sàn, chỉ tay về phía dãy Pha Luông huyền thoại, cụ Đứng bảo, bản thân cái tên núi Pha Luông đã mang nhiều bí ẩn. Ngay dưới chân núi Pha Luông có núi Phạ Hằng, cách bản Thín mấy con dao quăng. Đây là quả núi rậm rạp cây cối, có vô số hang hốc, là vương quốc của loài trăn.


< Núi Phạ Hằng um tùm cây cối.

Cụ Đứng là người vinh dự được tham quan động Phong Nha trong Quảng Bình. Cụ bảo: “Dãy núi Pha Luông ở bản mình có vô số hang động đẹp không kém gì ở Phong Nha đâu. Cả đời mình, mấy chục năm lội rừng, trèo hang, nhưng vẫn chưa đi hết hang động núi Hằng, chứ đừng nói hàng ngàn hang động trên Pha Luông”. Từ người già đến con trẻ bản Thín đều tôn trọng núi Hằng, coi quả núi đó là chốn linh thiêng tuyệt đối, không ai dám xâm phạm. Đời các cụ đã thờ quả núi ấy, đời con cháu ra sức bảo vệ, nên núi Hằng mãi xanh tươi, cây cối cổ thụ rợp bóng.

Quả núi ấy có vô số hang động, hang nọ thông hang kia, đi cả thế kỷ không hết, nhưng hang đẹp nhất, thiêng nhất, chính là hang Hằng, lấy tên theo quả núi. Vì hang có nhiều trăn, nên lớp trẻ gọi đó là hang trăn. Đôi khi, gọi tên hang Hằng, thì lớp trẻ lại không biết đến.


< Đường vào núi Hằng.

Truyền thuyết kể rằng, thời trái đất còn hoang sơ, con người sống co cụm thành những bản nhỏ giữa rừng hoang, thì vùng đất này nổi tiếng nhiều thú dữ. Ban ngày, đồng bào kéo nhau vào rừng săn bắn, hái lượm, đêm chui vào những căn lều nhỏ, đốt lửa xua thú dữ. Trong bộ tộc có một tù trưởng là người đứng đầu. Tù trưởng là người giỏi săn bắn nhất bộc tộc.

Một hôm, thú dữ từ khắp nơi kéo bầy về khu vực bản Thín để tìm cách ăn thịt con người. Hổ, báo, chó sói hàng ngàn con gầm ghè khắp rừng hoang, vây kín bản nhỏ. Chúng chỉ chờ chực con người sơ hở là ăn thịt. Mặc dù trai tráng trong bản đều là những thợ săn giỏi, nhưng người ít, mà thú hoang thì nhiều, nên con người dần đuối sức, có nguy cơ trở thành mồi cho thú dữ.

Trước mặt dân bản là hàng vạn con thú dữ, sau lưng dân bản là vách đá dựng đứng, không có cách nào vượt qua được. Tiếng kêu khóc não nề cả rừng hoang. Giữa đêm tối mịt mùng và tuyệt vọng, bỗng một luồng ánh sáng từ trên trời soi xuống làm sáng bừng cả rừng hoang. Trong ánh sáng kỳ ảo đó, có một con trăn khổng lồ, thân to như cây nghiến, dài vắt từ thung nọ sang thung kia đang trườn đi. Con trăn khổng lồ đi đến đâu, những dải rừng dạt ra đến đó.

< Đường vào hang Hằng.

Nghĩ rằng Giàng đã cử con trăn xuống cứu dân bản, nên đồng bào đi theo con trăn. Vách núi dựng đứng bỗng nứt ra thành hang động. Con trăn chui vào hang và biến mất. Vị tù trưởng đã dẫn đồng bào chui vào hang. Miệng hang nhỏ, nhưng bụng hang rất lớn, lại có vô số ngóc ngách dẫn đi khắp nơi. Điều kỳ lạ là trong hang đó có vô số trăn. Bọn trăn khổng lồ vắt mình trên các mỏm đá, quấn quanh nhũ đá. Chúng hiền lành như cục đất, không sợ người, cũng không tấn công người.

Đi đến giữa hang, thì một con sông lớn hiện ra, nước chảy lấp lánh. Dưới lòng sông, trong bụng hang có vô số cá lớn, cá bé. Đồng bào đánh bắt cá và sống thoải mái trong hang động rộng lớn này.

Tấn công vào trong hang không được, con người lại không chịu ra, bầy thú dữ nản chí nên bỏ đi. Lúc đó, bộ tộc mới chuyển ra ngoài. Nhớ ơn cứu mạng của Giàng, nên tù trưởng mới gọi dãy núi này là Phạ Hằng, có nghĩa là trăng. Nhờ có ánh sáng của mặt trăng dẫn đường, cùng với trăn thần, mà mọi người tìm thoát được bầy thú dữ.

Cũng kể từ đó, đồng bào bản Thín coi loài trăn trong hang Hằng, trên núi Hằng là trăn thần. Vậy nên, đồng bào chẳng bao giờ dám trèo lên quả núi đó, chứ đừng nói chuyện vào hang, lên núi bắt trăn. Điều đó lý giải vì sao, từ xưa đến nay, ở núi Hằng có rất nhiều trăn khổng lồ. Các cụ già trong bản hiểu rõ truyền thuyết này thì vừa sợ vừa tôn kính loài trăn. Thậm chí, các cụ gọi là ông trăn, chứ không gọi là con trăn.

Tuy nhiên, thế hệ trẻ thì không hiểu rõ về truyền thuyết đó và cũng không sợ trăn. Núi Hằng là núi cấm, là lãnh địa thiêng, dân bản không dám vào, nhưng hễ trăn bò ra khỏi núi, tìm về bản bắt vật nuôi, là họ tóm sống làm thịt, nấu cao.


< Theo truyền thuyết, dân bản đã được con trăn thần khổng lồ dẫn đường vào hang Hằng trốn bầy thú dữ.

Ngoài ra, người dân ở nơi khác đến, không tin vào truyền thuyết trăn thần, nên họ cũng không sợ. Không ít người vì lòng tham, đã mò vào hang bắt trăn đem bán. Chính vì thế, loài trăn không còn đông đúc trong hang Hằng như xưa nữa.

Huyền thoại thợ săn giết trăn khổng lồ

Tôi đang trò chuyện với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La) thì trưởng bản bỗng lên cơn sốt, rồi kêu mệt. Theo lời anh Đoài, từ hôm tham gia mổ thịt, nấu cao, đánh chén con trăn trộm gà ở nhà bà chị Vì Thị Chuẩn, anh có cảm giác hay mệt, hay ốm.


< Cụ Đứng bảo rằng, những người già bản Thín hiểu rõ về truyền thuyết trăn thần, nên không bao giờ dám bắt trăn ở núi Hằng.

Loài trăn không có độc, bản thân anh Đoài cũng không tin chuyện tâm linh, trăn thần, nhưng nghe nhiều người dọa, anh cũng thấy hơi hãi. Vì vậy, tôi cất lời nhờ anh dẫn vào hang Hằng tìm trăn, anh Đoài nhất định từ chối.

Tuy nhiên, anh Đoài có cậu cháu tên Quang, là thanh niên thông thạo hang Hằng nhất bản Thín này. Trong khi đám bạn sợ trăn thần, rắn độc, sợ sự linh thiêng của núi Hằng, thì Quang không sợ gì cả. Từ nhỏ, Quang đã thám hiểm hang Hằng, thường xuyên bắt cá trong hang về ăn. Quang chui khắp các ngóc ngách, bò giữa bầy trăn mà không khiếp sợ.

Bữa đó, Quang đang lợp mái nhà cho một người dân trong bản. Điều lạ lùng ở bản Thín, đó là, việc làm nhà không phải của người già, của các nghệ nhân, mà là của đám thanh niên. Hễ nhà nào làm nhà, thanh niên cả bản kéo đến làm giúp. Mặc dù đang là nhân công chính dựng ngôi nhà sàn, song khi trưởng bản Đoài gọi, Quang dừng việc đi ngay. Mấy chục nam thanh nữ tú đều thích thú muốn khám phá hang Hằng, nhưng đều sợ hãi không dám theo chúng tôi.

< Trong lòng hang Hằng.

Chúng tôi nai nịt gọn gàng. Đèn pin mỗi người hai chiếc. Quang vác theo một cây gỗ dài tới 7m. Theo Quang, đường vào hang nhiều đoạn dốc đứng, nên phải cắm cây gỗ để có thứ mà bám vào tụt xuống. Đứng ở con dốc vào bản Thín, thấy núi Hằng hiện rõ, um tùm, nằm bên thung lũng, dưới chân dãy Pha Luông. Chúng tôi cứ nhằm con đường mòn cắt ngang thung lũng mà đi.

Quang bảo, từ bé, cậu đã được nghe nhiều cụ già trong bản kể truyền thuyết về trăn thần cứu người, về hang Hằng. Những đứa trẻ khác nghe xong thì sợ hãi, không dám bén mảng đến núi Phạ Hằng, nhưng riêng cậu thì thấy thích thú, muốn khám phá núi Hằng, muốn chui vào hang Hằng, xem có đúng là có nhiều trăn như trong truyền thuyết không.

< Núi Phạ Hằng.

Ông cha Quang kể rằng, người Thái sống ở vùng đất này đã lâu, kể truyền thuyết về hang Hằng hàng đêm bên bếp lửa, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai biết hang Hằng ở chỗ nào, vì chẳng ai dám vào núi Phạ Hằng rậm rạp. Về sau, người Mường di cư từ nơi khác đến bản Thín, dựng nhà, dựng cửa, sống cùng với người Thái. Người Mường rất giỏi săn bắn, và nhiều thợ săn không sợ núi Phạ Hằng.

Trong số những thợ săn đó, có lão Sung. Lão Sung nổi tiếng khắp vùng Mộc Châu vì tài săn bắn. Lão từng giết hàng chục con hổ, vật nhau với gấu giữa rừng. Chưa từng có loài mãnh thú nào sống sót trước mũi tên của lão. Chuyện lão thợ săn thiện xạ tên Sung cứ như huyền thoại, được lớp già kể lại trong những đêm bên bếp lửa, chứ thế hệ trẻ như Quang không còn biết lão Sung là ai nữa.

< Lão Sung là người tìm ra hang Hằng.

Một lần, lão Sung vác nỏ vào rừng, bắn trúng gáy con lợn lòi. Giống lợn rừng cực kỳ khỏe, nên một mũi tên không thể giết ngay được nó. Lão Sung lần theo dấu máu của con lợn rừng. Dù bị thương nặng, song con lợn rừng vẫn lê lết đến tận vách núi Hằng. Nhưng lạ thay, đến chân núi thì dấu máu biến mất. Con lợn to tướng như thế không thể bốc hơi một cách kỳ lạ như vậy.

Lão Sung vạch từng bụi cỏ, hốc cây bên vách núi tìm kiếm, thì phát hiện có một cửa động rất nhỏ, chỉ vừa người chui. Lão Sung chui vào trong động, thì phát hiện vũng máu đọng ngay phía trong động. Như vậy, con lợn lòi trúng tên đã chui vào hang động này. Tuy nhiên, hang tối quá, nên lão Sung phải quay ra.

< Tác giả chui xuống hang Hằng đi tìm trăn.

Lão Sung dùng dao tước mấy miếng gỗ thông đặc quánh tinh dầu rồi châm lửa đốt. Gỗ thông đượm tinh dầu cháy bùng bùng phát sáng cả vùng rộng lớn. Lão Sung cầm bó đuốc tiến vào trong hang. Đi được một đoạn, lão chợt khựng lại, khi trước mặt mình, trên vách đá là một con trăn khổng lồ, thân to bằng cột nhà, màu da loang lổ, chỗ vàng, chỗ đen.

Con trăn khổng lồ đã bóp chết con lợn lòi to tướng, nặng phải trên tạ. Đuôi nó quấn chặt vào mỏm đá trên vách hang, miệng đớp chặt đầu con lợn kéo tuột lên vách đá. Con trăn cuộn thân quấn chặt con lợn, rồi há miệng đớp đầu con lợn. Nó quằn quại một lát, đã nuốt trọn con lợn lòi vào bụng.

Ánh sáng lập lòe và sự có mặt của lão Sung không khiến con trăn khiếp sợ. Là thợ săn lão luyện, nên lão Sung không sợ hãi bỏ chạy. Lão đối mặt trăn rắn nhiều rồi, nhưng trong mơ lão cũng chưa từng gặp một con trăn lớn như thế. Lão muốn giết nó đòi lại con lợn, nhưng chưa chuẩn bị kỹ, lại không có vũ khí, nên lão rời hang đá trở về bản.

< Trăn lột xác trong hang Hằng.

Sau này, tôi gặp lại cụ Vì Văn Đứng, hỏi chuyện về lão Sung, cụ Đứng cũng xác nhận chuyện lão Sung phát hiện hang Hằng là thật. Theo cụ Đứng, hôm lão Sung về bản, kể chuyện chui vào hang, gặp trăn khổng lồ, nhiều người chế nhạo cho rằng lão Sung nhìn gà hóa cuốc, nhưng lão Đứng thì tin là thật. Lúc đó, lão Đứng mới hiểu vì sao trâu, bò, dê của dân bản hễ thả vào rừng là biến mất.

Đã có mấy lần, khi lão Đứng đi săn, đuổi theo bọn nai, hoẵng, khỉ, nhưng chỉ đuổi đến núi Hằng là lão dừng lại. Lão không dám mạo phạm đến quả núi thiêng này. Nhưng điều lạ là, khi bầy thú chạy về phía núi Hằng, thì bỗng có tiếng xào xạc, ào ào, khiến cây cối khu rừng rung lên bần bật. Lão Đứng cũng chỉ nghĩ trong khu rừng bí ẩn đó có loài mãnh thú nào đó, hoặc bầy khỉ nhảy nhót trên cành cây, chứ cũng không dám tin lại có loài trăn khổng lồ như trong huyền thoại.

Bị nhiều người châm chọc, nên lão Sung tức lắm. Lão Sung mài rựa, vót tên, lên rừng lấy nhựa độc tẩm mũi giáo và quyết chí vào núi Hằng tìm con trăn khổng lồ. Lão Sung rủ các thợ săn đi cùng hỗ trợ, nhưng chẳng ai dám đi, dù không ai tin chuyện trăn thần là thật.

Lão Sung một mình khuất dạng sau những tán cây. Mấy chục người dân trong bản chờ ở đầu dốc. Mọi người chờ đến chiều tối, mà chẳng thấy lão ra khỏi rừng. Vợ con bắt đầu kêu khóc. Ai cũng tin lão Sung đã bị con trăn nuốt chửng. Tuy nhiên, nhập nhoạng tối, lão Sung mò ra với khuôn mặt bơ phờ. Lão bảo đã giết hạ con trăn, nhưng chỉ lôi được đuôi nó ra đến miệng hang.

Lúc này, đám trai bản mới mạnh dạn cùng lão kéo đến cửa hang, lôi xác con trăn về bản. Con trăn khổng lồ dài ngót chục mét, nặng phải 150kg. Tất cả các cụ già trong bản kéo đến và ai cũng khẳng định từ bé đến giờ chưa từng gặp con trăn nào lớn như thế. Có người nhìn con trăn thì khiếp sợ vì nghĩ nó là trăn thần, nhưng có người thì hả hê vì trả thù được cho trâu bò, dê lợn nhà mình.

< Các cụ già trong bản thường kể chuyện hang trăn núi Hằng cho lớp trẻ nghe.

Sau lần bắt được con trăn khổng lồ đó, lão Sung như người mất hồn. Lão không đi săn nữa, cũng chẳng tiếp xúc với ai. Lão lầm lì trong nhà. Lão Sung kể với mấy bạn già rằng, từ hôm giết ngu phạ (tiếng Thái là trăn trời), đêm nào lão cũng mơ thấy trăn thần trong truyền thuyết của người Thái quấn lão đến ngộp thở, rồi nuốt chửng lão vào bụng.

Thi thoảng, người dân trong bản vẫn gặp lão Sung mang lễ vào núi Hằng khấn vái. Thời gian sau, lão về với tổ tiên. Chuyện lão chết thế nào không ai biết. Lão đã chết mất chục năm nay.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

(Tiếp theo)
Những ngày lang thang ở bản Thín (Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), tôi nhận thấy rằng, đồng bào trong bản không ưa loài trăn, vì trăn xơi quá nhiều gà, vịt, lợn, dê của đồng bào.

Bản Thín là thung lũng bị kẹp giữa cao nguyên Mộc Châu và dãy Pha Luông huyền thoại. Mộc Châu quanh năm chìm trong mây mù, mùa Đông càng lạnh giá. Dãy Pha Luông cao vời vợi cũng lạnh cóng, trong khi bản Thín luôn ấm áp vào mùa Đông, nên trăn tụ cả về đây.
Xung quanh bản Thín có nhiều quả núi thấp, toàn núi đá, cây cối rậm rạp, hang hốc khắp nơi, là lãnh địa ẩn náu của loài trăn. Đồng bào Thái và Mường ở vùng đất này vừa kính trọng, vừa sợ, lại vừa ghét loài trăn.

Trăn cứu dân bản


< Điểm trưởng bản Thín.

Đồng bào kính trọng trăn, vì trong bản lưu truyền một huyền thoại vừa đẹp, vừa bí ẩn về loài trăn cứu người. Trưởng bản Vì Văn Đoài cho biết, độ chục năm trước, khi con đường vào Xuân Nha còn là đường mòn, bản Thín còn chìm trong đại ngàn hoang thẳm. Chỉ bước chân ra khỏi bản, là đã lạc vào rừng già. Thú hoang, trăn rắn quanh bản rất nhiều.

Bản Thín có 74 hộ dân, với hai dân tộc là Thái và Mường sinh sống. Người Mường mới di cư đến đây từ những năm 70 thế kỷ trước, nhưng người Thái đã định cư ở đất này từ lâu. Người già trong bản, hiểu nhiều truyền thuyết là cụ Vì Văn Đứng. Đứng bên mép ngôi nhà sàn, chỉ tay về phía dãy Pha Luông huyền thoại, cụ Đứng bảo, bản thân cái tên núi Pha Luông đã mang nhiều bí ẩn. Ngay dưới chân núi Pha Luông có núi Phạ Hằng, cách bản Thín mấy con dao quăng. Đây là quả núi rậm rạp cây cối, có vô số hang hốc, là vương quốc của loài trăn.


< Núi Phạ Hằng um tùm cây cối.

Cụ Đứng là người vinh dự được tham quan động Phong Nha trong Quảng Bình. Cụ bảo: “Dãy núi Pha Luông ở bản mình có vô số hang động đẹp không kém gì ở Phong Nha đâu. Cả đời mình, mấy chục năm lội rừng, trèo hang, nhưng vẫn chưa đi hết hang động núi Hằng, chứ đừng nói hàng ngàn hang động trên Pha Luông”. Từ người già đến con trẻ bản Thín đều tôn trọng núi Hằng, coi quả núi đó là chốn linh thiêng tuyệt đối, không ai dám xâm phạm. Đời các cụ đã thờ quả núi ấy, đời con cháu ra sức bảo vệ, nên núi Hằng mãi xanh tươi, cây cối cổ thụ rợp bóng.

Quả núi ấy có vô số hang động, hang nọ thông hang kia, đi cả thế kỷ không hết, nhưng hang đẹp nhất, thiêng nhất, chính là hang Hằng, lấy tên theo quả núi. Vì hang có nhiều trăn, nên lớp trẻ gọi đó là hang trăn. Đôi khi, gọi tên hang Hằng, thì lớp trẻ lại không biết đến.


< Đường vào núi Hằng.

Truyền thuyết kể rằng, thời trái đất còn hoang sơ, con người sống co cụm thành những bản nhỏ giữa rừng hoang, thì vùng đất này nổi tiếng nhiều thú dữ. Ban ngày, đồng bào kéo nhau vào rừng săn bắn, hái lượm, đêm chui vào những căn lều nhỏ, đốt lửa xua thú dữ. Trong bộ tộc có một tù trưởng là người đứng đầu. Tù trưởng là người giỏi săn bắn nhất bộc tộc.

Một hôm, thú dữ từ khắp nơi kéo bầy về khu vực bản Thín để tìm cách ăn thịt con người. Hổ, báo, chó sói hàng ngàn con gầm ghè khắp rừng hoang, vây kín bản nhỏ. Chúng chỉ chờ chực con người sơ hở là ăn thịt. Mặc dù trai tráng trong bản đều là những thợ săn giỏi, nhưng người ít, mà thú hoang thì nhiều, nên con người dần đuối sức, có nguy cơ trở thành mồi cho thú dữ.

Trước mặt dân bản là hàng vạn con thú dữ, sau lưng dân bản là vách đá dựng đứng, không có cách nào vượt qua được. Tiếng kêu khóc não nề cả rừng hoang. Giữa đêm tối mịt mùng và tuyệt vọng, bỗng một luồng ánh sáng từ trên trời soi xuống làm sáng bừng cả rừng hoang. Trong ánh sáng kỳ ảo đó, có một con trăn khổng lồ, thân to như cây nghiến, dài vắt từ thung nọ sang thung kia đang trườn đi. Con trăn khổng lồ đi đến đâu, những dải rừng dạt ra đến đó.

< Đường vào hang Hằng.

Nghĩ rằng Giàng đã cử con trăn xuống cứu dân bản, nên đồng bào đi theo con trăn. Vách núi dựng đứng bỗng nứt ra thành hang động. Con trăn chui vào hang và biến mất. Vị tù trưởng đã dẫn đồng bào chui vào hang. Miệng hang nhỏ, nhưng bụng hang rất lớn, lại có vô số ngóc ngách dẫn đi khắp nơi. Điều kỳ lạ là trong hang đó có vô số trăn. Bọn trăn khổng lồ vắt mình trên các mỏm đá, quấn quanh nhũ đá. Chúng hiền lành như cục đất, không sợ người, cũng không tấn công người.

Đi đến giữa hang, thì một con sông lớn hiện ra, nước chảy lấp lánh. Dưới lòng sông, trong bụng hang có vô số cá lớn, cá bé. Đồng bào đánh bắt cá và sống thoải mái trong hang động rộng lớn này.

Tấn công vào trong hang không được, con người lại không chịu ra, bầy thú dữ nản chí nên bỏ đi. Lúc đó, bộ tộc mới chuyển ra ngoài. Nhớ ơn cứu mạng của Giàng, nên tù trưởng mới gọi dãy núi này là Phạ Hằng, có nghĩa là trăng. Nhờ có ánh sáng của mặt trăng dẫn đường, cùng với trăn thần, mà mọi người tìm thoát được bầy thú dữ.

Cũng kể từ đó, đồng bào bản Thín coi loài trăn trong hang Hằng, trên núi Hằng là trăn thần. Vậy nên, đồng bào chẳng bao giờ dám trèo lên quả núi đó, chứ đừng nói chuyện vào hang, lên núi bắt trăn. Điều đó lý giải vì sao, từ xưa đến nay, ở núi Hằng có rất nhiều trăn khổng lồ. Các cụ già trong bản hiểu rõ truyền thuyết này thì vừa sợ vừa tôn kính loài trăn. Thậm chí, các cụ gọi là ông trăn, chứ không gọi là con trăn.

Tuy nhiên, thế hệ trẻ thì không hiểu rõ về truyền thuyết đó và cũng không sợ trăn. Núi Hằng là núi cấm, là lãnh địa thiêng, dân bản không dám vào, nhưng hễ trăn bò ra khỏi núi, tìm về bản bắt vật nuôi, là họ tóm sống làm thịt, nấu cao.


< Theo truyền thuyết, dân bản đã được con trăn thần khổng lồ dẫn đường vào hang Hằng trốn bầy thú dữ.

Ngoài ra, người dân ở nơi khác đến, không tin vào truyền thuyết trăn thần, nên họ cũng không sợ. Không ít người vì lòng tham, đã mò vào hang bắt trăn đem bán. Chính vì thế, loài trăn không còn đông đúc trong hang Hằng như xưa nữa.

Huyền thoại thợ săn giết trăn khổng lồ

Tôi đang trò chuyện với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La) thì trưởng bản bỗng lên cơn sốt, rồi kêu mệt. Theo lời anh Đoài, từ hôm tham gia mổ thịt, nấu cao, đánh chén con trăn trộm gà ở nhà bà chị Vì Thị Chuẩn, anh có cảm giác hay mệt, hay ốm.


< Cụ Đứng bảo rằng, những người già bản Thín hiểu rõ về truyền thuyết trăn thần, nên không bao giờ dám bắt trăn ở núi Hằng.

Loài trăn không có độc, bản thân anh Đoài cũng không tin chuyện tâm linh, trăn thần, nhưng nghe nhiều người dọa, anh cũng thấy hơi hãi. Vì vậy, tôi cất lời nhờ anh dẫn vào hang Hằng tìm trăn, anh Đoài nhất định từ chối.

Tuy nhiên, anh Đoài có cậu cháu tên Quang, là thanh niên thông thạo hang Hằng nhất bản Thín này. Trong khi đám bạn sợ trăn thần, rắn độc, sợ sự linh thiêng của núi Hằng, thì Quang không sợ gì cả. Từ nhỏ, Quang đã thám hiểm hang Hằng, thường xuyên bắt cá trong hang về ăn. Quang chui khắp các ngóc ngách, bò giữa bầy trăn mà không khiếp sợ.

Bữa đó, Quang đang lợp mái nhà cho một người dân trong bản. Điều lạ lùng ở bản Thín, đó là, việc làm nhà không phải của người già, của các nghệ nhân, mà là của đám thanh niên. Hễ nhà nào làm nhà, thanh niên cả bản kéo đến làm giúp. Mặc dù đang là nhân công chính dựng ngôi nhà sàn, song khi trưởng bản Đoài gọi, Quang dừng việc đi ngay. Mấy chục nam thanh nữ tú đều thích thú muốn khám phá hang Hằng, nhưng đều sợ hãi không dám theo chúng tôi.

< Trong lòng hang Hằng.

Chúng tôi nai nịt gọn gàng. Đèn pin mỗi người hai chiếc. Quang vác theo một cây gỗ dài tới 7m. Theo Quang, đường vào hang nhiều đoạn dốc đứng, nên phải cắm cây gỗ để có thứ mà bám vào tụt xuống. Đứng ở con dốc vào bản Thín, thấy núi Hằng hiện rõ, um tùm, nằm bên thung lũng, dưới chân dãy Pha Luông. Chúng tôi cứ nhằm con đường mòn cắt ngang thung lũng mà đi.

Quang bảo, từ bé, cậu đã được nghe nhiều cụ già trong bản kể truyền thuyết về trăn thần cứu người, về hang Hằng. Những đứa trẻ khác nghe xong thì sợ hãi, không dám bén mảng đến núi Phạ Hằng, nhưng riêng cậu thì thấy thích thú, muốn khám phá núi Hằng, muốn chui vào hang Hằng, xem có đúng là có nhiều trăn như trong truyền thuyết không.

< Núi Phạ Hằng.

Ông cha Quang kể rằng, người Thái sống ở vùng đất này đã lâu, kể truyền thuyết về hang Hằng hàng đêm bên bếp lửa, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai biết hang Hằng ở chỗ nào, vì chẳng ai dám vào núi Phạ Hằng rậm rạp. Về sau, người Mường di cư từ nơi khác đến bản Thín, dựng nhà, dựng cửa, sống cùng với người Thái. Người Mường rất giỏi săn bắn, và nhiều thợ săn không sợ núi Phạ Hằng.

Trong số những thợ săn đó, có lão Sung. Lão Sung nổi tiếng khắp vùng Mộc Châu vì tài săn bắn. Lão từng giết hàng chục con hổ, vật nhau với gấu giữa rừng. Chưa từng có loài mãnh thú nào sống sót trước mũi tên của lão. Chuyện lão thợ săn thiện xạ tên Sung cứ như huyền thoại, được lớp già kể lại trong những đêm bên bếp lửa, chứ thế hệ trẻ như Quang không còn biết lão Sung là ai nữa.

< Lão Sung là người tìm ra hang Hằng.

Một lần, lão Sung vác nỏ vào rừng, bắn trúng gáy con lợn lòi. Giống lợn rừng cực kỳ khỏe, nên một mũi tên không thể giết ngay được nó. Lão Sung lần theo dấu máu của con lợn rừng. Dù bị thương nặng, song con lợn rừng vẫn lê lết đến tận vách núi Hằng. Nhưng lạ thay, đến chân núi thì dấu máu biến mất. Con lợn to tướng như thế không thể bốc hơi một cách kỳ lạ như vậy.

Lão Sung vạch từng bụi cỏ, hốc cây bên vách núi tìm kiếm, thì phát hiện có một cửa động rất nhỏ, chỉ vừa người chui. Lão Sung chui vào trong động, thì phát hiện vũng máu đọng ngay phía trong động. Như vậy, con lợn lòi trúng tên đã chui vào hang động này. Tuy nhiên, hang tối quá, nên lão Sung phải quay ra.

< Tác giả chui xuống hang Hằng đi tìm trăn.

Lão Sung dùng dao tước mấy miếng gỗ thông đặc quánh tinh dầu rồi châm lửa đốt. Gỗ thông đượm tinh dầu cháy bùng bùng phát sáng cả vùng rộng lớn. Lão Sung cầm bó đuốc tiến vào trong hang. Đi được một đoạn, lão chợt khựng lại, khi trước mặt mình, trên vách đá là một con trăn khổng lồ, thân to bằng cột nhà, màu da loang lổ, chỗ vàng, chỗ đen.

Con trăn khổng lồ đã bóp chết con lợn lòi to tướng, nặng phải trên tạ. Đuôi nó quấn chặt vào mỏm đá trên vách hang, miệng đớp chặt đầu con lợn kéo tuột lên vách đá. Con trăn cuộn thân quấn chặt con lợn, rồi há miệng đớp đầu con lợn. Nó quằn quại một lát, đã nuốt trọn con lợn lòi vào bụng.

Ánh sáng lập lòe và sự có mặt của lão Sung không khiến con trăn khiếp sợ. Là thợ săn lão luyện, nên lão Sung không sợ hãi bỏ chạy. Lão đối mặt trăn rắn nhiều rồi, nhưng trong mơ lão cũng chưa từng gặp một con trăn lớn như thế. Lão muốn giết nó đòi lại con lợn, nhưng chưa chuẩn bị kỹ, lại không có vũ khí, nên lão rời hang đá trở về bản.

< Trăn lột xác trong hang Hằng.

Sau này, tôi gặp lại cụ Vì Văn Đứng, hỏi chuyện về lão Sung, cụ Đứng cũng xác nhận chuyện lão Sung phát hiện hang Hằng là thật. Theo cụ Đứng, hôm lão Sung về bản, kể chuyện chui vào hang, gặp trăn khổng lồ, nhiều người chế nhạo cho rằng lão Sung nhìn gà hóa cuốc, nhưng lão Đứng thì tin là thật. Lúc đó, lão Đứng mới hiểu vì sao trâu, bò, dê của dân bản hễ thả vào rừng là biến mất.

Đã có mấy lần, khi lão Đứng đi săn, đuổi theo bọn nai, hoẵng, khỉ, nhưng chỉ đuổi đến núi Hằng là lão dừng lại. Lão không dám mạo phạm đến quả núi thiêng này. Nhưng điều lạ là, khi bầy thú chạy về phía núi Hằng, thì bỗng có tiếng xào xạc, ào ào, khiến cây cối khu rừng rung lên bần bật. Lão Đứng cũng chỉ nghĩ trong khu rừng bí ẩn đó có loài mãnh thú nào đó, hoặc bầy khỉ nhảy nhót trên cành cây, chứ cũng không dám tin lại có loài trăn khổng lồ như trong huyền thoại.

Bị nhiều người châm chọc, nên lão Sung tức lắm. Lão Sung mài rựa, vót tên, lên rừng lấy nhựa độc tẩm mũi giáo và quyết chí vào núi Hằng tìm con trăn khổng lồ. Lão Sung rủ các thợ săn đi cùng hỗ trợ, nhưng chẳng ai dám đi, dù không ai tin chuyện trăn thần là thật.

Lão Sung một mình khuất dạng sau những tán cây. Mấy chục người dân trong bản chờ ở đầu dốc. Mọi người chờ đến chiều tối, mà chẳng thấy lão ra khỏi rừng. Vợ con bắt đầu kêu khóc. Ai cũng tin lão Sung đã bị con trăn nuốt chửng. Tuy nhiên, nhập nhoạng tối, lão Sung mò ra với khuôn mặt bơ phờ. Lão bảo đã giết hạ con trăn, nhưng chỉ lôi được đuôi nó ra đến miệng hang.

Lúc này, đám trai bản mới mạnh dạn cùng lão kéo đến cửa hang, lôi xác con trăn về bản. Con trăn khổng lồ dài ngót chục mét, nặng phải 150kg. Tất cả các cụ già trong bản kéo đến và ai cũng khẳng định từ bé đến giờ chưa từng gặp con trăn nào lớn như thế. Có người nhìn con trăn thì khiếp sợ vì nghĩ nó là trăn thần, nhưng có người thì hả hê vì trả thù được cho trâu bò, dê lợn nhà mình.

< Các cụ già trong bản thường kể chuyện hang trăn núi Hằng cho lớp trẻ nghe.

Sau lần bắt được con trăn khổng lồ đó, lão Sung như người mất hồn. Lão không đi săn nữa, cũng chẳng tiếp xúc với ai. Lão lầm lì trong nhà. Lão Sung kể với mấy bạn già rằng, từ hôm giết ngu phạ (tiếng Thái là trăn trời), đêm nào lão cũng mơ thấy trăn thần trong truyền thuyết của người Thái quấn lão đến ngộp thở, rồi nuốt chửng lão vào bụng.

Thi thoảng, người dân trong bản vẫn gặp lão Sung mang lễ vào núi Hằng khấn vái. Thời gian sau, lão về với tổ tiên. Chuyện lão chết thế nào không ai biết. Lão đã chết mất chục năm nay.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

Nhắc đến Nguyễn Công P., người dân ở thị trấn nông trường Thảo Nguyên (Mộc Châu, Sơn La), không ai là không biết. Vị đại gia này nổi tiếng cả vùng Tây Bắc về buôn bán các loại thú nhồi bông và cung cấp các loại cao.

< Bản Thín nằm dưới chân núi Pha Luông.

Lãnh địa của trăn

Lạc vào nhà đại gia này, tôi thực sự choáng, khi khắp 4 bức tường phòng khách, kín các căn phòng treo la liệt các loại đầu lâu thú, kín nền nhà là các loại thú nhồi bông, từ hổ, báo, mèo rừng, nai, hoẵng, gấu, bò tót, trâu rừng… đến đầu trăn ngắc ngoải.

Trong nhà đại gia P. lúc nào cũng đỏ lửa nấu các loại cao. Cao hổ thì phải đặt hàng, vì nguồn hổ hiếm, nhưng cao trăn thì khách đặt cả tạ cũng có. Tôi hỏi rằng, nguồn cao trăn ở đâu lắm thế, đại gia này bảo rằng, dãy núi Pha Luông, đoạn chạy qua Vườn quốc gia Xuân Nha, thuộc huyện Mộc Châu có rất nhiều trăn. Theo lời đại gia P., chỉ cần ông đặt hàng trước 1 tuần, thì đám con buôn sẽ gom được cả tạ trăn, mà đảm bảo 100% là trăn hoang dã. Việc bắt trăn cũng không quá vất vả, chỉ việc xách bao, đeo chiếc đèn pin, chui vao hang động, là có thể thu hoạch được cả… bao trăn!

Nghe đại gia P. nói vậy, tôi tỏ vẻ không tin. Thi thoảng, người dân bắt được con trăn hoang dã, đã khiến cả vùng rộng lớn xôn xao, chứ làm gì có chuyện trăn hoang dã còn nhiều đến thế. Đại gia P. quả quyết với tôi rằng, ngay cửa Vườn quốc gia Xuân Nha, có một số hang động, trong đó, nổi tiếng là hang Hằng, có rất nhiều trăn. Dù không tin lời đại gia P. lắm, xong tôi vẫn thử tìm đến dãy núi Pha Luông, đi tìm hang động kỳ bí, nơi có rất nhiều trăn, theo chỉ dẫn của vị đại gia có cả dây chuyền nấu cao kia.

Từ ngã ba Vân Hồ, thủ phủ của các ông trùm buôn bán ma túy khét tiếng, tôi rẽ vào con đường dẫn đến xã Xuân Nha, nằm dưới chân dãy núi Pha Luông. Những bản người Mông hiện lên trong màn sương mờ, với hoa mận, hoa mơ bung nở trắng li li như những bông tuyết. Con đường đã trải nhựa, nhưng dốc ngược như đường lên trời, lúc quanh co bên vách núi, lúc xuyên qua núi đá như máng nước. Đi mãi mà chẳng gặp người. Con đường dốc dác xuyên đại ngàn sang Lào này nghe đồn rằng, cửu vạn ma túy đi lại nhiều hơn cả đồng bào bản địa.

< Dựng nhà ở bản Thín.

Con đường gần 20 km từ Mộc Châu vào Xuân Nha chìm nghỉm trong mây, nhưng thung lũng Thín hiện ra trong nắng nhạt, ấp áp. Dọc con đường xuyên qua bản, thanh niên trai tráng dựng nhà đông như hội. Đồng bào Thái ở đây thường dựng nhà vào cuối năm và việc dựng nhà chủ yếu do thanh niên. Họ làm nhà giúp nhau một cách vô tư, không lấy tiền.

Trưởng bản Vì Văn Đoài bảo: “Bản Thín của mình nằm dưới thung lũng, bốn bề núi cao vây bọc, nên dù khắp các đỉnh núi mây mù, lạnh giá, thì bản Thín vẫn quang đãng, ấm cúng. Nhiệt độ ở đây lúc nào cũng cao hơn Mộc Châu gần 10 độ. Mùa hè thì nóng lắm. Mình đi Hà Nội rồi. Thủ đô không nóng bằng bản Thín của mình đâu”. Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết: “Bốn bề lạnh giá, mà bản Thín lại nóng ấm thế này, chắc là trăn rắn khắp nơi tụ về nhiều lắm!”.


< Trưởng bản Vì Văn Đoài.

Trưởng bản Đoài bảo: “Ồ, nhà báo nói đúng rồi. Bản Mình nổi tiếng có nhiều trăn rắn mà. Chẳng mấy ngày là không có người tóm được trăn, rắn. Đêm nào trăn chẳng mò về bản bắt gà. Bản mình cứ nghèo, cứ đói mãi vậy thôi. Nuôi con gà, con dê, con lợn nào có dám thả ra rừng. Mấy ông trăn xơi hết ngay. Mà nhốt trong chuồng rồi, ông trăn vẫn tìm về ăn vụng của bản mình”.

Theo trưởng bản Đoài, vừa mới đây thôi, cách chừng nửa tháng, cả bản nháo nhào chạy ra đường xem có sự gì lạ, thì thấy hai thanh niên lững thững vạch rừng đi ra đường cái. Chuyện cứ như phim kinh dị: Hai thanh niên gánh cây gỗ trên vai. Trên cây gỗ ấy là con trăn khổng lồ quấn như sợi thừng quanh cây gỗ. Đầu và đuôi trăn bị buộc thít chặt bằng dây lạt nên không ngắc ngoải được.

Trưởng bản Đoài biết rằng, bắn trăn hoang dã là vi phạm pháp luật, là giết hại động vật trong sách đỏ, nhưng khổ nỗi, nhiều đồng bào trong bản lại… vui mừng khôn xiết. Đồng bào ghét con trăn ấy lắm, vì nó to như thế, nặng đến mấy chục cân như thế, sống dễ đến chục năm trong rừng như thế, thì nó xơi không biết bao nhiêu dê, lợn, gà của đồng bào rồi.

< Trăn thường xuyên về bản Thín 'ăn trộm' gia cầm của đồng bào.

Trưởng bản Đoài bảo, mấy chục năm trước, rừng Xuân Nha rất nhiều hổ và chó sói. Hổ tuy khiến đồng bào khiếp sợ, nhưng chó sói mới là lũ phá hoại đồng bào nhiều nhất. Trâu bò thả lên rừng toàn bị bọn sói đỏ đớp thủng mông, moi lòng phèo ra xơi. Đớp chết con này, ăn hết lòng phèo, chúng lại giết hại con khác.

Rừng Xuân Nha bị lâm tặc khai thác cạn kiệt, bị đồng bào di cư chặt hạ nhiều nơi, nên hổ biến mất, sói cũng bị đuổi đi xa, những tưởng cuộc sống đã bình yên, nhưng lại bị bọn trăn quấy rối. Chính vì thế, dù biết rằng, trăn là loài vật trong sách đỏ, bị cấm săn bắt, nhưng nếu loài động vật ấy cứ đêm đêm mò vào tận chuồng xơi gà, vịt, dê, lợn của đồng bào, thì đồng bào ức nó lắm. Đó cũng là tâm lý dễ hiểu. Tôi hỏi trưởng bản Đoài: “Trưởng bản biết trăn là loài vật được ghi trong sách đỏ, cấm săn bắt, giết hại? Vậy trưởng bảo có tuyên truyền cho người dân hiểu không?”.

< Dãy núi Pha Luông ở huyện Mộc Châu.

Trưởng bản Đoài bảo: “Mình biết chứ, nhưng con trăn nó phá đồng bào mình quá. Thú thật với nhà báo là mình cũng… xơi thịt trăn liên tục ấy mà. Nhà báo không tin thì mình lấy mỡ trăn cho nhà báo xem nhé. Nhà mình có nhiều mỡ trăn lắm. Nó ở rừng thì nó là giống hoang dã, cần bảo vệ, nhưng nó mò về nhà mình, ăn gà nhà mình, thì nó là kẻ thù của mình, mình phải ăn thịt nó chứ. Mình không ăn thịt nó, thì nó ăn gà, ăn lợn nhà mình”.

Tôi và trưởng bản Đoài đang tranh luận về việc bảo vệ trăn hay tóm trăn mổ thịt, thì bà Vì Thị Chuẩn ghé vào nhà trưởng bản. Trưởng bản Đoài bảo: “Chị Chuẩn là chị gái mình đấy. Trăn vừa về nhà chị ấy trộm gà, bị mấy người nhà mình tóm sống và ăn thịt nó rồi”.

Tóm trăn làm thịt

Khi tôi đang tranh luận chuyện nên bảo vệ trăn, hay tóm sống chúng để làm thịt với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), thì bà Vì Thị Chuẩn ghé nhà trưởng bản chơi. Bà Chuẩn là chị gái trưởng bản Đoài.

< Bà Chuẩn rất bức xúc vì bị trăn trộm rất nhiều gà, vịt.

Đang nói chuyện trăn, bà Chuẩn bảo: “Mình nuôi được 10 con gà, thì chỉ ăn thịt được 5 con thôi, vì 5 con gà bị trăn ăn trộm mất. Bọn trăn tham lam lắm, cứ đêm đêm mò về bản bắt gà của mình”. Nhiều đêm đang ngủ, nghe tiếng gà kêu quang quác, bà trở dậy, bật đèn pin rọi vào chuồng gà, y rằng có một tên trăn vung thân phóng vọt vào rừng. Đấy là những tên trăn gan bé, chứ nhiều lần, thấy bà, chúng chẳng thèm chạy, cứ ung dung nuốt chửng gà vịt, rồi mới lững thững bò đi.

Bà Chuẩn vốn bị bỏng từ nhỏ. Hồi 6 tháng tuổi, mới đang tập bò, thì bò đúng vào đống than hồng giữa nhà. Giờ đã ở tuổi 50, nhưng khuôn mặt vẫn chằng chịt sẹo. Vì hạn chế nhan sắc, nên bà không lấy được chồng, ở một mình một nhà. Vậy nên, đêm hôm, soi đèn pin vào chuồng gà, thấy trăn khổng lồ, to bằng cây chuối, cái phích, nửa thân trong chuồng đớp gà, nửa thân còn dài ngoẵng tít hút, bà hãi lắm, sợ đến chết đứng, thì sao còn tóm được chúng nữa. Thôi đành để nó xơi no bụng, rồi tự nó bò đi. Đuổi nó, nó xơi thịt cả bà, thì quá tội nợ.

< Dù biết trăn là động vật trong sách đó, nhưng anh Đoài vẫn bức xúc vì chúng liên tục ăn cắp vật nuôi của dân bản.

Bà Chuẩn bức xúc: “Nhưng bọn trăn cứ ăn gà của mình thế thì mình bức xúc lắm. Mình nuôi mãi mới được chục gà, để tết mổ thịt cúng tổ tiên, mà nó ăn hết thì ai mà chịu được”. Bức xúc vì bọn trăn, mà nhờ vả mấy cậu em, mấy đứa cháu đều không được, vì tất cả đều… sợ trăn, nên bà Chuẩn kêu ông Quyết, người Chum Nưa, cách nhà bà Chuẩn nửa ngày đường, đến ở cùng, để phục kích tóm bọn trăn.

Ông Quyết là người góa vợ, là bạn bà Chuẩn. Ông bà đều đã già, sống cảnh neo đơn, nên bầu bạn cho đỡ buồn. Hôm đó, cách đây mới 2 tháng, sắp đến ngày rằm, trăng sáng vằng vặc, ông bà đốt lửa, uống trà, hút thuốc lào đến quá nửa đêm, mà không thấy trăn mò vào chuồng trộm gà, nên tắt đèn đi ngủ.

4 giờ sáng, tiếng con gà mái quang quác mấy tiếng, rồi im bặt. Bà Chuẩn trở dậy, mang đèn đi ra sân. Bình thường, nếu trăn mò vào chuồng gà, thì cả đàn phải kêu quang quác, đánh thức cả bản, đằng này, lại chỉ nghe mấy tiếng con gà mái, nên bà Chuẩn nghĩ chỉ là chuột trêu gà, nên bà lại vào giường nằm. Thế nhưng, vừa đặt lưng, thì lại nghe tiếng con gà trống kêu. Nó chỉ kêu vài tiếng rồi im luôn. Nghĩ có sự lạ, có thể bọn chồn, cầy bắt gà, nên bà Chuẩn mò dậy, mang đèn pin soi chuồng gà.

< Trăn từ ngọn núi kia thường xuyên về nhà bà bắt trộm gà, vịt.

Chiếu đèn pin vào chuồng, bà Chuẩn đứng tim, vì một con trăn khá lớn, thân to gần bằng cái phích, dài cỡ 5m đang đớp ngang con gà trống. 3 con gà, cả trống lẫn mái nằm chết thẳng cẳng dưới nền đất. Con trăn rất lớn, nên nó đớp một cái, hoặc cuộn thân bóp nhẹ là bọn gà chết thẳng cẳng. Bà Chuẩn chạy tọt vào nhà lay ông Quyết dậy. Từng là thợ bắt trăn, bắt rắn lành nghề, nên ông Quyết chẳng vội vàng gì. Ông chậm chạp trở dậy, vươn vai, vặn mình mấy cái, rồi mò xuống dưới bếp tìm cái bao tải.

Bà Chuẩn sốt ruột giục, thì ông bảo cứ bình tĩnh. Hóa ra, nếu lúc đó xông vào chuồng gà ngay, thì con trăn sẽ bỏ chạy mất dạng. Nhưng nếu nó đã xơi mấy con gà, hoặc đang nuốt gà đến cuống họng, nó sẽ chậm chạp, và đó chính là cơ hội để tóm sống trăn. Từ lúc bà Chuẩn thông báo hốt hoảng, phải sau 15 phút sau, ông Quyết mới vòng từ phía bìa rừng, rồi tiến vào chuồng gà, theo hướng con trăn đi vào. Thấy đuôi nó vẫn lòng thòng ở ngoài, nửa thân trên trong chuồng gà, ông Quyết mặc kệ.

< Dãy Pha Luông mờ sương nhìn từ bản Thín.

Ông lần dọc về phía đầu con trăn. Ông dùng búa ráng sức bình sinh, táng một quả chí tử vào sống lưng con trăn. Con trăn bị gãy xương sống, đau đớn, quằn quại. Ông Quyết xông vào đè đầu nó xuống. Bà Chuẩn vạch miệng bao tải chụp vào đuôi con trăn. Con trăn quằn quại, rồi tuột dần vào bao tải.

Sáng hôm sau, bà Chuẩn thông báo với cả bản về việc tóm sống tên trăn chuyên trộm gà vịt của bà con. Dân bản kéo đến chúc mừng, hả hê vì đã tóm được “tên trộm”. Đích thân trưởng bản Vì Văn Đoài đã chạy sang bản Mường An, nhờ ông Xuân, là thợ nấu cao trăn nổi tiếng trong vùng đến xử lý giúp tên “tội phạm” này.

Ông Xuân bảo, trăn to thế này đích thị là trăn gió. Thế rồi, trước mặt đông đảo mọi người, chú trăn bị treo ngược lên xà nhà. Ông Xuân rạch đường nhỏ ở họng, máu tuôn xối xả. Lòng trăn được một chảo, xào thơm lừng. Thịt trăn được chế biến mấy món liền. Cả gia đình trưởng bản đánh chén nó say. Phần còn lại, ông Xuân đóng vào bao mang về nấu cao. Vài ngày sau, ông Xuân mang cao về cho bà Chuẩn. Bà Chuẩn chia cho mỗi người một ít cao và mỡ trăn. Người dân ở bản Thín đều dự trữ mỡ trăn trong nhà dùng để trị bỏng.

< Trăn thường xuyên vào nương rẫy bắt dê của bà con, vào tận chuồng bắt gà, lợn.

Theo lời trưởng bản Đoài, vì bọn trăn liên tục mò về bản trộm gà, vịt, dê, lợn, nên chẳng tháng nào mà không có một tên trăn bị tóm. Mới đây nhất, cách hôm chúng tôi lên bản Thín đúng 10 ngày, thì anh Thánh, cũng là họ hàng với trưởng bản Đoài, tóm được tên trăn đất khá lớn, nặng chừng 40kg, dài khoảng 4m.

Cứ khoảng chục ngày đến một tháng, tên trăn này lại mò về nhà anh Thánh ăn trộm. Hôm thì nó xơi mất vài con gà, hôm thì nó nuốt chửng con lợn. Anh Thánh bức xúc lắm, nhưng chưa có cách nào trả thù được con trăn. Anh Thánh đã chấp nhận hy sinh một con lợn cắp nách, nặng 20kg để tóm tên trăn này. Anh đã dùng dây thừng thít chặt chân chú lợn, rồi buộc sợi dây vào cột chuồng.

Tên trăn đất mò vào chuồng, bóp chết lợn, nuốt chửng chú lợn. Tuy nhiên, nó cũng nuốt luôn cả sợi dây thừng. Nó chưa kịp nôn con lợn ra để tẩu thoát, thì đã bị anh Thánh cùng người nhà tóm sống. Mọi người còn đang tính xả thịt xào nấu liên hoan ăn mừng, hay thả nó vào nồi nấu cao, thì thợ mua trăn từ Mộc Châu tìm vào trả giá. Được món hời, nên anh Thánh bán cho lái buôn. Sau này tôi mới biết, chính đại gia P. ở Mộc Châu đã mua con trăn này. Nó đã thành cao.

< Tháng nào người dân bản Thín cũng tóm được trăn.

Xa hơn một chút, cách nay tròn 3 tháng, ông Chức, ở cuối bản Thín, cũng tóm được một tên trăn gió, chỉ nặng 22 kg. Tên trăn này cũng vong mạng vì dám mò vào chuồng gà và xơi tái mấy con gà liền. Chú trăn xấu số này đã biến thành những miếng cao vuông vức. Vì trưởng bản Đoài là em họ của ông Chức, nên cũng được chia miếng cao và một ít cao để ngâm rượu uống cho bổ.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)

Nhắc đến Nguyễn Công P., người dân ở thị trấn nông trường Thảo Nguyên (Mộc Châu, Sơn La), không ai là không biết. Vị đại gia này nổi tiếng cả vùng Tây Bắc về buôn bán các loại thú nhồi bông và cung cấp các loại cao.

< Bản Thín nằm dưới chân núi Pha Luông.

Lãnh địa của trăn

Lạc vào nhà đại gia này, tôi thực sự choáng, khi khắp 4 bức tường phòng khách, kín các căn phòng treo la liệt các loại đầu lâu thú, kín nền nhà là các loại thú nhồi bông, từ hổ, báo, mèo rừng, nai, hoẵng, gấu, bò tót, trâu rừng… đến đầu trăn ngắc ngoải.

Trong nhà đại gia P. lúc nào cũng đỏ lửa nấu các loại cao. Cao hổ thì phải đặt hàng, vì nguồn hổ hiếm, nhưng cao trăn thì khách đặt cả tạ cũng có. Tôi hỏi rằng, nguồn cao trăn ở đâu lắm thế, đại gia này bảo rằng, dãy núi Pha Luông, đoạn chạy qua Vườn quốc gia Xuân Nha, thuộc huyện Mộc Châu có rất nhiều trăn. Theo lời đại gia P., chỉ cần ông đặt hàng trước 1 tuần, thì đám con buôn sẽ gom được cả tạ trăn, mà đảm bảo 100% là trăn hoang dã. Việc bắt trăn cũng không quá vất vả, chỉ việc xách bao, đeo chiếc đèn pin, chui vao hang động, là có thể thu hoạch được cả… bao trăn!

Nghe đại gia P. nói vậy, tôi tỏ vẻ không tin. Thi thoảng, người dân bắt được con trăn hoang dã, đã khiến cả vùng rộng lớn xôn xao, chứ làm gì có chuyện trăn hoang dã còn nhiều đến thế. Đại gia P. quả quyết với tôi rằng, ngay cửa Vườn quốc gia Xuân Nha, có một số hang động, trong đó, nổi tiếng là hang Hằng, có rất nhiều trăn. Dù không tin lời đại gia P. lắm, xong tôi vẫn thử tìm đến dãy núi Pha Luông, đi tìm hang động kỳ bí, nơi có rất nhiều trăn, theo chỉ dẫn của vị đại gia có cả dây chuyền nấu cao kia.

Từ ngã ba Vân Hồ, thủ phủ của các ông trùm buôn bán ma túy khét tiếng, tôi rẽ vào con đường dẫn đến xã Xuân Nha, nằm dưới chân dãy núi Pha Luông. Những bản người Mông hiện lên trong màn sương mờ, với hoa mận, hoa mơ bung nở trắng li li như những bông tuyết. Con đường đã trải nhựa, nhưng dốc ngược như đường lên trời, lúc quanh co bên vách núi, lúc xuyên qua núi đá như máng nước. Đi mãi mà chẳng gặp người. Con đường dốc dác xuyên đại ngàn sang Lào này nghe đồn rằng, cửu vạn ma túy đi lại nhiều hơn cả đồng bào bản địa.

< Dựng nhà ở bản Thín.

Con đường gần 20 km từ Mộc Châu vào Xuân Nha chìm nghỉm trong mây, nhưng thung lũng Thín hiện ra trong nắng nhạt, ấp áp. Dọc con đường xuyên qua bản, thanh niên trai tráng dựng nhà đông như hội. Đồng bào Thái ở đây thường dựng nhà vào cuối năm và việc dựng nhà chủ yếu do thanh niên. Họ làm nhà giúp nhau một cách vô tư, không lấy tiền.

Trưởng bản Vì Văn Đoài bảo: “Bản Thín của mình nằm dưới thung lũng, bốn bề núi cao vây bọc, nên dù khắp các đỉnh núi mây mù, lạnh giá, thì bản Thín vẫn quang đãng, ấm cúng. Nhiệt độ ở đây lúc nào cũng cao hơn Mộc Châu gần 10 độ. Mùa hè thì nóng lắm. Mình đi Hà Nội rồi. Thủ đô không nóng bằng bản Thín của mình đâu”. Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết: “Bốn bề lạnh giá, mà bản Thín lại nóng ấm thế này, chắc là trăn rắn khắp nơi tụ về nhiều lắm!”.


< Trưởng bản Vì Văn Đoài.

Trưởng bản Đoài bảo: “Ồ, nhà báo nói đúng rồi. Bản Mình nổi tiếng có nhiều trăn rắn mà. Chẳng mấy ngày là không có người tóm được trăn, rắn. Đêm nào trăn chẳng mò về bản bắt gà. Bản mình cứ nghèo, cứ đói mãi vậy thôi. Nuôi con gà, con dê, con lợn nào có dám thả ra rừng. Mấy ông trăn xơi hết ngay. Mà nhốt trong chuồng rồi, ông trăn vẫn tìm về ăn vụng của bản mình”.

Theo trưởng bản Đoài, vừa mới đây thôi, cách chừng nửa tháng, cả bản nháo nhào chạy ra đường xem có sự gì lạ, thì thấy hai thanh niên lững thững vạch rừng đi ra đường cái. Chuyện cứ như phim kinh dị: Hai thanh niên gánh cây gỗ trên vai. Trên cây gỗ ấy là con trăn khổng lồ quấn như sợi thừng quanh cây gỗ. Đầu và đuôi trăn bị buộc thít chặt bằng dây lạt nên không ngắc ngoải được.

Trưởng bản Đoài biết rằng, bắn trăn hoang dã là vi phạm pháp luật, là giết hại động vật trong sách đỏ, nhưng khổ nỗi, nhiều đồng bào trong bản lại… vui mừng khôn xiết. Đồng bào ghét con trăn ấy lắm, vì nó to như thế, nặng đến mấy chục cân như thế, sống dễ đến chục năm trong rừng như thế, thì nó xơi không biết bao nhiêu dê, lợn, gà của đồng bào rồi.

< Trăn thường xuyên về bản Thín 'ăn trộm' gia cầm của đồng bào.

Trưởng bản Đoài bảo, mấy chục năm trước, rừng Xuân Nha rất nhiều hổ và chó sói. Hổ tuy khiến đồng bào khiếp sợ, nhưng chó sói mới là lũ phá hoại đồng bào nhiều nhất. Trâu bò thả lên rừng toàn bị bọn sói đỏ đớp thủng mông, moi lòng phèo ra xơi. Đớp chết con này, ăn hết lòng phèo, chúng lại giết hại con khác.

Rừng Xuân Nha bị lâm tặc khai thác cạn kiệt, bị đồng bào di cư chặt hạ nhiều nơi, nên hổ biến mất, sói cũng bị đuổi đi xa, những tưởng cuộc sống đã bình yên, nhưng lại bị bọn trăn quấy rối. Chính vì thế, dù biết rằng, trăn là loài vật trong sách đỏ, bị cấm săn bắt, nhưng nếu loài động vật ấy cứ đêm đêm mò vào tận chuồng xơi gà, vịt, dê, lợn của đồng bào, thì đồng bào ức nó lắm. Đó cũng là tâm lý dễ hiểu. Tôi hỏi trưởng bản Đoài: “Trưởng bản biết trăn là loài vật được ghi trong sách đỏ, cấm săn bắt, giết hại? Vậy trưởng bảo có tuyên truyền cho người dân hiểu không?”.

< Dãy núi Pha Luông ở huyện Mộc Châu.

Trưởng bản Đoài bảo: “Mình biết chứ, nhưng con trăn nó phá đồng bào mình quá. Thú thật với nhà báo là mình cũng… xơi thịt trăn liên tục ấy mà. Nhà báo không tin thì mình lấy mỡ trăn cho nhà báo xem nhé. Nhà mình có nhiều mỡ trăn lắm. Nó ở rừng thì nó là giống hoang dã, cần bảo vệ, nhưng nó mò về nhà mình, ăn gà nhà mình, thì nó là kẻ thù của mình, mình phải ăn thịt nó chứ. Mình không ăn thịt nó, thì nó ăn gà, ăn lợn nhà mình”.

Tôi và trưởng bản Đoài đang tranh luận về việc bảo vệ trăn hay tóm trăn mổ thịt, thì bà Vì Thị Chuẩn ghé vào nhà trưởng bản. Trưởng bản Đoài bảo: “Chị Chuẩn là chị gái mình đấy. Trăn vừa về nhà chị ấy trộm gà, bị mấy người nhà mình tóm sống và ăn thịt nó rồi”.

Tóm trăn làm thịt

Khi tôi đang tranh luận chuyện nên bảo vệ trăn, hay tóm sống chúng để làm thịt với trưởng bản Vì Văn Đoài (bản Thín, Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La), thì bà Vì Thị Chuẩn ghé nhà trưởng bản chơi. Bà Chuẩn là chị gái trưởng bản Đoài.

< Bà Chuẩn rất bức xúc vì bị trăn trộm rất nhiều gà, vịt.

Đang nói chuyện trăn, bà Chuẩn bảo: “Mình nuôi được 10 con gà, thì chỉ ăn thịt được 5 con thôi, vì 5 con gà bị trăn ăn trộm mất. Bọn trăn tham lam lắm, cứ đêm đêm mò về bản bắt gà của mình”. Nhiều đêm đang ngủ, nghe tiếng gà kêu quang quác, bà trở dậy, bật đèn pin rọi vào chuồng gà, y rằng có một tên trăn vung thân phóng vọt vào rừng. Đấy là những tên trăn gan bé, chứ nhiều lần, thấy bà, chúng chẳng thèm chạy, cứ ung dung nuốt chửng gà vịt, rồi mới lững thững bò đi.

Bà Chuẩn vốn bị bỏng từ nhỏ. Hồi 6 tháng tuổi, mới đang tập bò, thì bò đúng vào đống than hồng giữa nhà. Giờ đã ở tuổi 50, nhưng khuôn mặt vẫn chằng chịt sẹo. Vì hạn chế nhan sắc, nên bà không lấy được chồng, ở một mình một nhà. Vậy nên, đêm hôm, soi đèn pin vào chuồng gà, thấy trăn khổng lồ, to bằng cây chuối, cái phích, nửa thân trong chuồng đớp gà, nửa thân còn dài ngoẵng tít hút, bà hãi lắm, sợ đến chết đứng, thì sao còn tóm được chúng nữa. Thôi đành để nó xơi no bụng, rồi tự nó bò đi. Đuổi nó, nó xơi thịt cả bà, thì quá tội nợ.

< Dù biết trăn là động vật trong sách đó, nhưng anh Đoài vẫn bức xúc vì chúng liên tục ăn cắp vật nuôi của dân bản.

Bà Chuẩn bức xúc: “Nhưng bọn trăn cứ ăn gà của mình thế thì mình bức xúc lắm. Mình nuôi mãi mới được chục gà, để tết mổ thịt cúng tổ tiên, mà nó ăn hết thì ai mà chịu được”. Bức xúc vì bọn trăn, mà nhờ vả mấy cậu em, mấy đứa cháu đều không được, vì tất cả đều… sợ trăn, nên bà Chuẩn kêu ông Quyết, người Chum Nưa, cách nhà bà Chuẩn nửa ngày đường, đến ở cùng, để phục kích tóm bọn trăn.

Ông Quyết là người góa vợ, là bạn bà Chuẩn. Ông bà đều đã già, sống cảnh neo đơn, nên bầu bạn cho đỡ buồn. Hôm đó, cách đây mới 2 tháng, sắp đến ngày rằm, trăng sáng vằng vặc, ông bà đốt lửa, uống trà, hút thuốc lào đến quá nửa đêm, mà không thấy trăn mò vào chuồng trộm gà, nên tắt đèn đi ngủ.

4 giờ sáng, tiếng con gà mái quang quác mấy tiếng, rồi im bặt. Bà Chuẩn trở dậy, mang đèn đi ra sân. Bình thường, nếu trăn mò vào chuồng gà, thì cả đàn phải kêu quang quác, đánh thức cả bản, đằng này, lại chỉ nghe mấy tiếng con gà mái, nên bà Chuẩn nghĩ chỉ là chuột trêu gà, nên bà lại vào giường nằm. Thế nhưng, vừa đặt lưng, thì lại nghe tiếng con gà trống kêu. Nó chỉ kêu vài tiếng rồi im luôn. Nghĩ có sự lạ, có thể bọn chồn, cầy bắt gà, nên bà Chuẩn mò dậy, mang đèn pin soi chuồng gà.

< Trăn từ ngọn núi kia thường xuyên về nhà bà bắt trộm gà, vịt.

Chiếu đèn pin vào chuồng, bà Chuẩn đứng tim, vì một con trăn khá lớn, thân to gần bằng cái phích, dài cỡ 5m đang đớp ngang con gà trống. 3 con gà, cả trống lẫn mái nằm chết thẳng cẳng dưới nền đất. Con trăn rất lớn, nên nó đớp một cái, hoặc cuộn thân bóp nhẹ là bọn gà chết thẳng cẳng. Bà Chuẩn chạy tọt vào nhà lay ông Quyết dậy. Từng là thợ bắt trăn, bắt rắn lành nghề, nên ông Quyết chẳng vội vàng gì. Ông chậm chạp trở dậy, vươn vai, vặn mình mấy cái, rồi mò xuống dưới bếp tìm cái bao tải.

Bà Chuẩn sốt ruột giục, thì ông bảo cứ bình tĩnh. Hóa ra, nếu lúc đó xông vào chuồng gà ngay, thì con trăn sẽ bỏ chạy mất dạng. Nhưng nếu nó đã xơi mấy con gà, hoặc đang nuốt gà đến cuống họng, nó sẽ chậm chạp, và đó chính là cơ hội để tóm sống trăn. Từ lúc bà Chuẩn thông báo hốt hoảng, phải sau 15 phút sau, ông Quyết mới vòng từ phía bìa rừng, rồi tiến vào chuồng gà, theo hướng con trăn đi vào. Thấy đuôi nó vẫn lòng thòng ở ngoài, nửa thân trên trong chuồng gà, ông Quyết mặc kệ.

< Dãy Pha Luông mờ sương nhìn từ bản Thín.

Ông lần dọc về phía đầu con trăn. Ông dùng búa ráng sức bình sinh, táng một quả chí tử vào sống lưng con trăn. Con trăn bị gãy xương sống, đau đớn, quằn quại. Ông Quyết xông vào đè đầu nó xuống. Bà Chuẩn vạch miệng bao tải chụp vào đuôi con trăn. Con trăn quằn quại, rồi tuột dần vào bao tải.

Sáng hôm sau, bà Chuẩn thông báo với cả bản về việc tóm sống tên trăn chuyên trộm gà vịt của bà con. Dân bản kéo đến chúc mừng, hả hê vì đã tóm được “tên trộm”. Đích thân trưởng bản Vì Văn Đoài đã chạy sang bản Mường An, nhờ ông Xuân, là thợ nấu cao trăn nổi tiếng trong vùng đến xử lý giúp tên “tội phạm” này.

Ông Xuân bảo, trăn to thế này đích thị là trăn gió. Thế rồi, trước mặt đông đảo mọi người, chú trăn bị treo ngược lên xà nhà. Ông Xuân rạch đường nhỏ ở họng, máu tuôn xối xả. Lòng trăn được một chảo, xào thơm lừng. Thịt trăn được chế biến mấy món liền. Cả gia đình trưởng bản đánh chén nó say. Phần còn lại, ông Xuân đóng vào bao mang về nấu cao. Vài ngày sau, ông Xuân mang cao về cho bà Chuẩn. Bà Chuẩn chia cho mỗi người một ít cao và mỡ trăn. Người dân ở bản Thín đều dự trữ mỡ trăn trong nhà dùng để trị bỏng.

< Trăn thường xuyên vào nương rẫy bắt dê của bà con, vào tận chuồng bắt gà, lợn.

Theo lời trưởng bản Đoài, vì bọn trăn liên tục mò về bản trộm gà, vịt, dê, lợn, nên chẳng tháng nào mà không có một tên trăn bị tóm. Mới đây nhất, cách hôm chúng tôi lên bản Thín đúng 10 ngày, thì anh Thánh, cũng là họ hàng với trưởng bản Đoài, tóm được tên trăn đất khá lớn, nặng chừng 40kg, dài khoảng 4m.

Cứ khoảng chục ngày đến một tháng, tên trăn này lại mò về nhà anh Thánh ăn trộm. Hôm thì nó xơi mất vài con gà, hôm thì nó nuốt chửng con lợn. Anh Thánh bức xúc lắm, nhưng chưa có cách nào trả thù được con trăn. Anh Thánh đã chấp nhận hy sinh một con lợn cắp nách, nặng 20kg để tóm tên trăn này. Anh đã dùng dây thừng thít chặt chân chú lợn, rồi buộc sợi dây vào cột chuồng.

Tên trăn đất mò vào chuồng, bóp chết lợn, nuốt chửng chú lợn. Tuy nhiên, nó cũng nuốt luôn cả sợi dây thừng. Nó chưa kịp nôn con lợn ra để tẩu thoát, thì đã bị anh Thánh cùng người nhà tóm sống. Mọi người còn đang tính xả thịt xào nấu liên hoan ăn mừng, hay thả nó vào nồi nấu cao, thì thợ mua trăn từ Mộc Châu tìm vào trả giá. Được món hời, nên anh Thánh bán cho lái buôn. Sau này tôi mới biết, chính đại gia P. ở Mộc Châu đã mua con trăn này. Nó đã thành cao.

< Tháng nào người dân bản Thín cũng tóm được trăn.

Xa hơn một chút, cách nay tròn 3 tháng, ông Chức, ở cuối bản Thín, cũng tóm được một tên trăn gió, chỉ nặng 22 kg. Tên trăn này cũng vong mạng vì dám mò vào chuồng gà và xơi tái mấy con gà liền. Chú trăn xấu số này đã biến thành những miếng cao vuông vức. Vì trưởng bản Đoài là em họ của ông Chức, nên cũng được chia miếng cao và một ít cao để ngâm rượu uống cho bổ.

Còn tiếp
Theo Phạm Ngọc Dương (VTC)