Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển. Hiển thị tất cả bài đăng
Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.

Đạo “Ông Trần”

Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.

Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.


< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.

Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.

Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.

Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.

Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.

Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.

< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.

Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.

Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.

< Người dân làng biển Long Sơn.

Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.

Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:

“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.

Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.

Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.

Tục “chết chung hòm”

Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.

< Nhà Lớn Long Sơn.

Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.

Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.

Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.

Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.

Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.

Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.

Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.

Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.

Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.

Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.

Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.

Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet

Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.

Đạo “Ông Trần”

Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.

Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.


< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.

Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.

Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.

Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.

Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.

Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.

< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.

Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.

Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.

< Người dân làng biển Long Sơn.

Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.

Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:

“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.

Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.

Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.

Tục “chết chung hòm”

Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.

< Nhà Lớn Long Sơn.

Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.

Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.

Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.

Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.

Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.

Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.

Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.

Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.

Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.

Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.

Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.

Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet

Từ một dải bờ biển hoang vu với những đồi cát đỏ như sa mạc nằm rất xa đường giao thông, Mũi Né giờ đã trở thành trung tâm du lịch của thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, địa điểm du lịch xanh - thân thiện với môi trường.

< Một khu nghỉ dưỡng rợp bóng cây xanh ở Mũi Né.

Dọc theo con đường chạy ra Mũi Né - Hòn Rơm tính từ bãi đá Ông Địa, chỉ hơn chục km, du khách như lạc vào một thế giới khác khi hàng chục resort cứ nối tiếp nhau trong không gian xanh hòa mình với thiên nhiên. Từ Victoria, Sea Lion Beach Resort & Spa, Sao Biển cho đến Làng Tre - Mũi Né, Sunny Beach, Muine Bay…

< Mô hình đồng lúa Việt Nam trong một khu nghỉ dưỡng ở Mũi Né.

Khu nghỉ dưỡng nào cũng sở hữu một bãi biển dài với hàng dừa xanh mượt bên bờ cát trắng, như nàng công chúa phơi mình dưới nắng vàng và biển xanh.

< Các phòng nghỉ chìm vào không gian xanh mát của thiên nhiên, tạo cảm giác thư giãn và yên tĩnh tuyệt vời cho du khách.

Kể từ khi Khu nghỉ dưỡng Seahorse & Spa trở thành đơn vị duy nhất của tỉnh Bình Thuận nằm trong số 10 khách sạn Việt Nam được vinh dự trao giải thưởng Khách sạn xanh ASEAN 2012, Mũi Né càng được khẳng định là một địa điểm du lịch xanh - thân thiện với môi trường.

< Nét dân dã lồng vào chi tiết trang trí của các khu nghỉ dưỡng.

Riêng với Seahorse & Spa, cảnh quan khu nghỉ dưỡng này được bài trí như bức tranh đồng quê Việt Nam thu nhỏ.

< Ở Mũi Né, du khách có thể chọn phòng nghỉ theo nhu cầu gia đình, bạn bè hoặc những cặp uyên ương hưởng tuần trăng mật.

Đó là một không gian thoáng mát, trên 70% diện tích xanh thiên nhiên, tạo cho du khách những trải nghiệm chân thực nhất về màu xanh miền nhiệt đới.

< Bãi tắm biển cao cấp thoáng đãng của các resort tại Mũi Né.

Từ khu vườn được phủ xanh bằng cây rau má, hòa vào màu xanh của trời và biển, đến những rặng dừa nghiêng mình soi bóng dưới dòng suối thiên nhiên uốn quanh các cụm bungalow (nhà nghỉ dưỡng)...

< Hồ bơi của khu nghỉ dưỡng Seahorse & Spa.

Trong thời gian lưu lại Mũi Né, ấn tượng nhất vẫn là hình ảnh những rặng dừa tại các khu nghỉ dưỡng Mũi Né, nó còn nguyên vẹn trong không gian chung của vùng đất vốn gắn liền với những hàng dừa thơ mộng.

< Du khách có thể khám phá đời sống của dân chài ven biển.

Vào buổi chiều tà, đặc biệt nhất là về đêm, khi các resort lên đèn làm lộng lẫy cả một vùng trời biển, rất nhiều du khách sử dụng xe đạp làm phương tiện khám phá Mũi Né và các khu vực xung quanh, như một hành động thiết thực để bảo vệ môi trường.

< Hải sản Bình Thuận tươi ngon và nhiều dinh dưỡng.

Mũi Né ngày nay được mệnh danh là “thiên đường nghỉ dưỡng”, “thủ đô resort” của Việt Nam với hơn 100 khu nghỉ dưỡng sinh thái, resort, biệt thự lớn nhỏ, được kết hợp với nhau bởi vẻ đẹp thiên nhiên hòa quyện cùng lối kiến trúc hiện đại.

< Những mảng không gian xanh đặc trưng tại các khu resort ở Mũi Né. Nét đồng quê Thường hiện hữu trong các khu nghỉ dưỡng.

Mũi Né còn là nơi hội tụ những dự án nhà nghỉ cao cấp, những khu vui chơi giải trí hiện đại, những công trình giải trí công cộng đa chức năng…, mang đến cho du khách cảm giác an toàn, thoải mái và vui tươi.

Chính từ những nét quyến rũ và thi vị đó, Mũi Né mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách đến tham quan và nghỉ dưỡng, trong đó có một lượng khách không nhỏ đến từ Nga, Đức, Thụy Điển, Hà Lan, Pháp, Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Canada…

< Màn đêm buông xuống trong một khu nghỉ dưỡng.

Hiện du lịch xanh Mũi Né phát triển bền vững, gắn với cộng đồng dân cư địa phương. Thực tế cho thấy, ý thức làm du lịch xanh - thân thiện với môi trường của người dân Mũi Né ngày càng được nâng cao và trở nên chuyên nghiệp hơn, để lại những tình cảm tốt đẹp trong lòng du khách.

Từ một dải bờ biển hoang vu với những đồi cát đỏ như sa mạc nằm rất xa đường giao thông, Mũi Né giờ đã trở thành trung tâm du lịch của thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, địa điểm du lịch xanh - thân thiện với môi trường.

< Một khu nghỉ dưỡng rợp bóng cây xanh ở Mũi Né.

Dọc theo con đường chạy ra Mũi Né - Hòn Rơm tính từ bãi đá Ông Địa, chỉ hơn chục km, du khách như lạc vào một thế giới khác khi hàng chục resort cứ nối tiếp nhau trong không gian xanh hòa mình với thiên nhiên. Từ Victoria, Sea Lion Beach Resort & Spa, Sao Biển cho đến Làng Tre - Mũi Né, Sunny Beach, Muine Bay…

< Mô hình đồng lúa Việt Nam trong một khu nghỉ dưỡng ở Mũi Né.

Khu nghỉ dưỡng nào cũng sở hữu một bãi biển dài với hàng dừa xanh mượt bên bờ cát trắng, như nàng công chúa phơi mình dưới nắng vàng và biển xanh.

< Các phòng nghỉ chìm vào không gian xanh mát của thiên nhiên, tạo cảm giác thư giãn và yên tĩnh tuyệt vời cho du khách.

Kể từ khi Khu nghỉ dưỡng Seahorse & Spa trở thành đơn vị duy nhất của tỉnh Bình Thuận nằm trong số 10 khách sạn Việt Nam được vinh dự trao giải thưởng Khách sạn xanh ASEAN 2012, Mũi Né càng được khẳng định là một địa điểm du lịch xanh - thân thiện với môi trường.

< Nét dân dã lồng vào chi tiết trang trí của các khu nghỉ dưỡng.

Riêng với Seahorse & Spa, cảnh quan khu nghỉ dưỡng này được bài trí như bức tranh đồng quê Việt Nam thu nhỏ.

< Ở Mũi Né, du khách có thể chọn phòng nghỉ theo nhu cầu gia đình, bạn bè hoặc những cặp uyên ương hưởng tuần trăng mật.

Đó là một không gian thoáng mát, trên 70% diện tích xanh thiên nhiên, tạo cho du khách những trải nghiệm chân thực nhất về màu xanh miền nhiệt đới.

< Bãi tắm biển cao cấp thoáng đãng của các resort tại Mũi Né.

Từ khu vườn được phủ xanh bằng cây rau má, hòa vào màu xanh của trời và biển, đến những rặng dừa nghiêng mình soi bóng dưới dòng suối thiên nhiên uốn quanh các cụm bungalow (nhà nghỉ dưỡng)...

< Hồ bơi của khu nghỉ dưỡng Seahorse & Spa.

Trong thời gian lưu lại Mũi Né, ấn tượng nhất vẫn là hình ảnh những rặng dừa tại các khu nghỉ dưỡng Mũi Né, nó còn nguyên vẹn trong không gian chung của vùng đất vốn gắn liền với những hàng dừa thơ mộng.

< Du khách có thể khám phá đời sống của dân chài ven biển.

Vào buổi chiều tà, đặc biệt nhất là về đêm, khi các resort lên đèn làm lộng lẫy cả một vùng trời biển, rất nhiều du khách sử dụng xe đạp làm phương tiện khám phá Mũi Né và các khu vực xung quanh, như một hành động thiết thực để bảo vệ môi trường.

< Hải sản Bình Thuận tươi ngon và nhiều dinh dưỡng.

Mũi Né ngày nay được mệnh danh là “thiên đường nghỉ dưỡng”, “thủ đô resort” của Việt Nam với hơn 100 khu nghỉ dưỡng sinh thái, resort, biệt thự lớn nhỏ, được kết hợp với nhau bởi vẻ đẹp thiên nhiên hòa quyện cùng lối kiến trúc hiện đại.

< Những mảng không gian xanh đặc trưng tại các khu resort ở Mũi Né. Nét đồng quê Thường hiện hữu trong các khu nghỉ dưỡng.

Mũi Né còn là nơi hội tụ những dự án nhà nghỉ cao cấp, những khu vui chơi giải trí hiện đại, những công trình giải trí công cộng đa chức năng…, mang đến cho du khách cảm giác an toàn, thoải mái và vui tươi.

Chính từ những nét quyến rũ và thi vị đó, Mũi Né mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách đến tham quan và nghỉ dưỡng, trong đó có một lượng khách không nhỏ đến từ Nga, Đức, Thụy Điển, Hà Lan, Pháp, Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Canada…

< Màn đêm buông xuống trong một khu nghỉ dưỡng.

Hiện du lịch xanh Mũi Né phát triển bền vững, gắn với cộng đồng dân cư địa phương. Thực tế cho thấy, ý thức làm du lịch xanh - thân thiện với môi trường của người dân Mũi Né ngày càng được nâng cao và trở nên chuyên nghiệp hơn, để lại những tình cảm tốt đẹp trong lòng du khách.

Về Hà Tiên, nhiều người nói chỉ có “ra hòn” là vui. Đảo Hải Tặc, cái tên nghe dữ dằn, gây nhiều tò mò khiến chúng tôi quyết tâm vượt sóng khám phá một lần cho biết.

< Biển tại đảo Hải Tặc trong xanh, nhìn thấu đáy.

Hòn Đốc thuộc xã đảo Tiên Hải, thị xã Hà Tiên (Kiên Giang). Hòn Đốc còn có tên gọi rất ấn tượng là “đảo Hải Tặc”, nằm ở khu vực biển Tây của Việt Nam. Hòn Đốc hợp với các đảo lân cận hình thành quần đảo Hải Tặc có diện tích đất nổi 1.100ha, gồm 16 hòn đảo cách bờ biển Hà Tiên 11 hải lý.


< Giữa hoang sơ biển trời đảo Hải Tặc.

Tấm bia chủ quyền ở bờ tây đảo Hải Tặc ghi rõ dòng chữ:
“Quần đảo Hải Tặc. Hải đồ số: 3686 S.H; vĩ tuyến 10 độ 10’8; kinh tuyến 104 độ 20’0”. Quần đảo Hải Tặc gồm có các đảo: Hòn Kèo Ngựa, Hòn Kiến Vàng, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Vinh, Hòn Gùi, Hòn Hòn Ụ, Hòn Giang, Hòn Chơ Rơ, Hòn Đước Non, Hòn Bô Dập, Hòn Đồi Mồi”.

Thú vị cua “ăn đèn”

Tàu phăm phăm gối sóng hướng về Hòn Đốc. Giữa biển khơi xanh biếc, phía nào cũng nhìn thấy đảo, du khách tưởng như đang du ngoạn giữa “tiểu Hạ Long”! Sau hai giờ hải hành, tàu cập bến Bãi Nam đảo Hải Tặc. Chúng tôi “đổ bộ” lên đảo, lúc này trời đã xế chiều. Có dịp ngắm hoàng hôn với mặt trời lặn dần xuống biển thấy lòng thanh thản lạ.

Cảng cá nhộn nhịp hàng lên xuống. Du khách sẽ gặp rất nhiều cá bớp, cá đuối, ghẹ, mực, tôm… Cá rất tươi ngon, giá cả cũng “rất ok”: cá bớp 80.000 đồng/kg, cá đuối 70.000 đồng/kg, mực trứng 80.000 đồng/kg, tôm tích 70.000 đồng/kg, ghẹ 70.000 đồng/kg…

Soi và đâm cua biển ở những kè, gành đá ven đảo Hải Tặc là một tiết mục hấp dẫn. Cua biển về đêm thường vào bờ, nép ven các vách đá để kiếm ăn, tìm bạn tình và sinh sản. Bạn sẽ được trang bị đèn ba pin cực mạnh để soi xuyên xuống mặt nước. Một cây chĩa hai có ngạnh, dài chừng hai thước. Khi soi gặp cua, bạn phải giữ tâm của ánh đèn chiếu ngay mắt cua. Mắt cua sẽ phản chiếu lại ánh sáng đỏ hồng như hai hạt lựu, trong suốt. Chúng sẽ bất động “ăn đèn”.

Bạn nhắm theo luồng ánh sáng và phóng chĩa vừa tầm cho thật ngọt và êm. Nếu săn tìm và đâm giỏi, một đêm trúng có thể thu được vài ký cua biển đem về nấu cháo hoặc hấp bia nhậu lai rai.

Sau một giấc ngủ ngon, không mộng mị giữa tiếng sóng biển rì rào, chúng tôi khoan khoái dậy sớm ngắm mặt trời vừa mới nhô lên ở phía quần đảo Bà Lụa, vượt qua Dốc Miếu thoai thoải đổ xuống Bãi Dừa thơ mộng. Một không gian hoang sơ hiện ra với khoảng trời biển bao la, tĩnh lặng. Trên núi, ven rừng thỉnh thoảng có tiếng chim được đặt tên nghe rất lạ như “lấu lấu” hay “bắt cô trói cột” hót lên lảnh lót, vang động rồi yên ắng chìm sâu giữa biển, rừng tịch mịch…


< Cổ thụ trên núi (Hòn Đốc).

Ra đảo Hải Tặc dứt khoát phải thử món ghẹ tươi hấp bia! Theo kinh nghiệm của ngư dân địa phương, ghẹ ngon là những con thật chắc, to cỡ bốn ngón tay, bấm vào yếm không lún. Ghẹ rửa sạch, cho vào nồi, đổ chừng một lon bia hấp với củ sả đập giập. Ghẹ hấp bia khi chín sẽ có màu vàng gạch tôm quyện với hương vị thơm lừng của bia, sả.

Ghẹ hấp bia phải ăn lúc còn nóng. Gạch béo ngậy cùng vị cay nhẹ của muối tiêu chanh, thấm vào miệng lưỡi mà theo ngôn ngữ “dân nhậu” là ngây ngất củ tỏi. Ăn ghẹ cũng là một nghệ thuật, phải từ từ bóc yếm, bóp vỡ càng, gỡ thịt, nhấm nháp lai rai… Ghẹ ở đây có khối thịt nhỏ màu trắng hồng, chắc lẳn, to bằng ngón tay út, ăn vào thơm, ngọt thấm dịu cả đầu lưỡi.

Cướp biển, “chuyện ngày xưa”

Trong tiếng sóng biển vỗ oàm oạp, nghe chú Tư “xe tăng”, một ngư dân cố cựu, kể: “Ông nội tôi nói lại hồi đó trên đảo này có đảng cướp “Cánh Buồm Đen”. Bọn cướp chủ yếu “đánh” những tàu buôn đi ngang vịnh Hà Tiên - Rạch Giá. Trên cột buồm của tàu “Hải Tặc” thường treo cây chổi có ý quét sạch tàu qua lại. “Cánh Buồm Đen” hoạt động trên một vùng biển rộng lớn của vịnh Thái Lan… Đến bây giờ, người ta vẫn đồn râm ran về một kho báu được bọn cướp biển chôn giấu đâu đó trên quần đảo…

Chuyện kể rằng từng có người đến đây để đào kho báu vào một buổi chiều tháng 3-1983, ngư dân xã Tiên Hải đã vây bắt được hai người này. Họ khai có một tấm bản đồ được vẽ cách đây 300 năm của dòng họ truyền lại, chỉ dẫn tới kho báu mà hải tặc chôn giấu! Chuyện trở nên ly kỳ hơn khi hồi đầu năm 2009, một số ngư dân lặn tìm ốc, hải mã tình cờ gặp một số lượng khá lớn tiền đồng cổ…”.

< Bãi đá Bắc đảo Hải Tặc.

Ngày nay chuyện cướp biển ở quần đảo Hải Tặc chỉ còn là quá khứ. Hòn Đốc đã hoàn toàn thay da đổi thịt. Xã đảo Tiên Hải đã có trường cấp II, trạm xá, bưu điện, đường giao thông quanh đảo. Ngư dân có một cuộc sống ấm no. Khách tham quan, du lịch tìm đến đảo ngày một đông. Đã có nhiều dự án đang được triển khai ở đây.

Từ TP.HCM du khách theo quốc lộ 1 về Vĩnh Long, rẽ qua QL80 đi Sa Đéc - Long Xuyên. Từ TP Long Xuyên đi Tri Tôn - Vàm Rầy - Kiên Lương - Hà Tiên. Đường dài chừng 350km, dễ đi. Từ Hà Tiên ra Hòn Đốc chừng 11 hải lý (21,7km).

Korean Air! - Theo TTO, internet

Về Hà Tiên, nhiều người nói chỉ có “ra hòn” là vui. Đảo Hải Tặc, cái tên nghe dữ dằn, gây nhiều tò mò khiến chúng tôi quyết tâm vượt sóng khám phá một lần cho biết.

< Biển tại đảo Hải Tặc trong xanh, nhìn thấu đáy.

Hòn Đốc thuộc xã đảo Tiên Hải, thị xã Hà Tiên (Kiên Giang). Hòn Đốc còn có tên gọi rất ấn tượng là “đảo Hải Tặc”, nằm ở khu vực biển Tây của Việt Nam. Hòn Đốc hợp với các đảo lân cận hình thành quần đảo Hải Tặc có diện tích đất nổi 1.100ha, gồm 16 hòn đảo cách bờ biển Hà Tiên 11 hải lý.


< Giữa hoang sơ biển trời đảo Hải Tặc.

Tấm bia chủ quyền ở bờ tây đảo Hải Tặc ghi rõ dòng chữ:
“Quần đảo Hải Tặc. Hải đồ số: 3686 S.H; vĩ tuyến 10 độ 10’8; kinh tuyến 104 độ 20’0”. Quần đảo Hải Tặc gồm có các đảo: Hòn Kèo Ngựa, Hòn Kiến Vàng, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Vinh, Hòn Gùi, Hòn Hòn Ụ, Hòn Giang, Hòn Chơ Rơ, Hòn Đước Non, Hòn Bô Dập, Hòn Đồi Mồi”.

Thú vị cua “ăn đèn”

Tàu phăm phăm gối sóng hướng về Hòn Đốc. Giữa biển khơi xanh biếc, phía nào cũng nhìn thấy đảo, du khách tưởng như đang du ngoạn giữa “tiểu Hạ Long”! Sau hai giờ hải hành, tàu cập bến Bãi Nam đảo Hải Tặc. Chúng tôi “đổ bộ” lên đảo, lúc này trời đã xế chiều. Có dịp ngắm hoàng hôn với mặt trời lặn dần xuống biển thấy lòng thanh thản lạ.

Cảng cá nhộn nhịp hàng lên xuống. Du khách sẽ gặp rất nhiều cá bớp, cá đuối, ghẹ, mực, tôm… Cá rất tươi ngon, giá cả cũng “rất ok”: cá bớp 80.000 đồng/kg, cá đuối 70.000 đồng/kg, mực trứng 80.000 đồng/kg, tôm tích 70.000 đồng/kg, ghẹ 70.000 đồng/kg…

Soi và đâm cua biển ở những kè, gành đá ven đảo Hải Tặc là một tiết mục hấp dẫn. Cua biển về đêm thường vào bờ, nép ven các vách đá để kiếm ăn, tìm bạn tình và sinh sản. Bạn sẽ được trang bị đèn ba pin cực mạnh để soi xuyên xuống mặt nước. Một cây chĩa hai có ngạnh, dài chừng hai thước. Khi soi gặp cua, bạn phải giữ tâm của ánh đèn chiếu ngay mắt cua. Mắt cua sẽ phản chiếu lại ánh sáng đỏ hồng như hai hạt lựu, trong suốt. Chúng sẽ bất động “ăn đèn”.

Bạn nhắm theo luồng ánh sáng và phóng chĩa vừa tầm cho thật ngọt và êm. Nếu săn tìm và đâm giỏi, một đêm trúng có thể thu được vài ký cua biển đem về nấu cháo hoặc hấp bia nhậu lai rai.

Sau một giấc ngủ ngon, không mộng mị giữa tiếng sóng biển rì rào, chúng tôi khoan khoái dậy sớm ngắm mặt trời vừa mới nhô lên ở phía quần đảo Bà Lụa, vượt qua Dốc Miếu thoai thoải đổ xuống Bãi Dừa thơ mộng. Một không gian hoang sơ hiện ra với khoảng trời biển bao la, tĩnh lặng. Trên núi, ven rừng thỉnh thoảng có tiếng chim được đặt tên nghe rất lạ như “lấu lấu” hay “bắt cô trói cột” hót lên lảnh lót, vang động rồi yên ắng chìm sâu giữa biển, rừng tịch mịch…


< Cổ thụ trên núi (Hòn Đốc).

Ra đảo Hải Tặc dứt khoát phải thử món ghẹ tươi hấp bia! Theo kinh nghiệm của ngư dân địa phương, ghẹ ngon là những con thật chắc, to cỡ bốn ngón tay, bấm vào yếm không lún. Ghẹ rửa sạch, cho vào nồi, đổ chừng một lon bia hấp với củ sả đập giập. Ghẹ hấp bia khi chín sẽ có màu vàng gạch tôm quyện với hương vị thơm lừng của bia, sả.

Ghẹ hấp bia phải ăn lúc còn nóng. Gạch béo ngậy cùng vị cay nhẹ của muối tiêu chanh, thấm vào miệng lưỡi mà theo ngôn ngữ “dân nhậu” là ngây ngất củ tỏi. Ăn ghẹ cũng là một nghệ thuật, phải từ từ bóc yếm, bóp vỡ càng, gỡ thịt, nhấm nháp lai rai… Ghẹ ở đây có khối thịt nhỏ màu trắng hồng, chắc lẳn, to bằng ngón tay út, ăn vào thơm, ngọt thấm dịu cả đầu lưỡi.

Cướp biển, “chuyện ngày xưa”

Trong tiếng sóng biển vỗ oàm oạp, nghe chú Tư “xe tăng”, một ngư dân cố cựu, kể: “Ông nội tôi nói lại hồi đó trên đảo này có đảng cướp “Cánh Buồm Đen”. Bọn cướp chủ yếu “đánh” những tàu buôn đi ngang vịnh Hà Tiên - Rạch Giá. Trên cột buồm của tàu “Hải Tặc” thường treo cây chổi có ý quét sạch tàu qua lại. “Cánh Buồm Đen” hoạt động trên một vùng biển rộng lớn của vịnh Thái Lan… Đến bây giờ, người ta vẫn đồn râm ran về một kho báu được bọn cướp biển chôn giấu đâu đó trên quần đảo…

Chuyện kể rằng từng có người đến đây để đào kho báu vào một buổi chiều tháng 3-1983, ngư dân xã Tiên Hải đã vây bắt được hai người này. Họ khai có một tấm bản đồ được vẽ cách đây 300 năm của dòng họ truyền lại, chỉ dẫn tới kho báu mà hải tặc chôn giấu! Chuyện trở nên ly kỳ hơn khi hồi đầu năm 2009, một số ngư dân lặn tìm ốc, hải mã tình cờ gặp một số lượng khá lớn tiền đồng cổ…”.

< Bãi đá Bắc đảo Hải Tặc.

Ngày nay chuyện cướp biển ở quần đảo Hải Tặc chỉ còn là quá khứ. Hòn Đốc đã hoàn toàn thay da đổi thịt. Xã đảo Tiên Hải đã có trường cấp II, trạm xá, bưu điện, đường giao thông quanh đảo. Ngư dân có một cuộc sống ấm no. Khách tham quan, du lịch tìm đến đảo ngày một đông. Đã có nhiều dự án đang được triển khai ở đây.

Từ TP.HCM du khách theo quốc lộ 1 về Vĩnh Long, rẽ qua QL80 đi Sa Đéc - Long Xuyên. Từ TP Long Xuyên đi Tri Tôn - Vàm Rầy - Kiên Lương - Hà Tiên. Đường dài chừng 350km, dễ đi. Từ Hà Tiên ra Hòn Đốc chừng 11 hải lý (21,7km).

Korean Air! - Theo TTO, internet

Bạn sẽ không khỏi sửng sốt khi tới thăm những vùng vịnh dưới đây của Việt Nam bởi vẻ đẹp như những miền cổ tích.

1. Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh

Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động.
Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền - hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước - Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá - hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi...

Hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước - hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất - hòn Lư Hương... Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc.

Trong lòng các đảo đá trên vịnh còn có những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung...
Ngày 11/11/2011, Vịnh Hạ Long chính thức lọt vào danh sách 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới do Tổ chức New7Wonders tổ chức.

2. Vịnh Lăng Cô – Huế

Thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế) là một vùng đất giàu tiềm năng bởi thiên nhiên, phong cảnh đẹp. Đèo Hải Vân, non xanh nước biếc, núi chạy dài ra sát mép biển. Bên dưới là bãi tắm Lăng Cô phẳng lì, gần như nguyên sơ, nước xanh trong. Nhiều du khách khi tới Huế, được đắm mình trong khung cảnh ở Lăng Cô đã nói rằng "Lăng Cô đẹp hơn tranh thủy mặc".

Lăng Cô lại là một vùng biển hiền hòa, nguyên sơ với một dải cát trắng mịn, mặt nước biển xanh trong. Trước đây, người ta biết đến Lăng Cô như một điểm dừng chân của khách trước khi qua đèo, với vài dãy hàng cơm, một vài điểm bán hàng hải sản khô lèo tèo. Từ khi hầm đường bộ Hải Vân được khởi công xây dựng, thị trấn Lăng Cô mới trở nên nhộn nhịp hơn.

Từ Lăng Cô, vào những ngày đẹp trời, có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh quan khu vườn quốc gia Bạch Mã. Lăng Cô còn có đầm Lập An. Cứ mỗi chiều, từng đàn cò trắng nhấp nhô bay về đầm tìm chỗ ngủ.
Hiện nay, Vịnh Lăng Cô đã chính thức trở thành thành viên thứ 30 của Câu lạc bộ các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays Club).

3. Vịnh Nha Trang – Khánh Hòa

Được che chắn bởi 19 đảo lớn nhỏ, vịnh Nha Trang rộng chừng 500km2 khá kín gió, không có sóng lớn. Trong vịnh Nha Trang có gần mười đảo yến, hằng năm việc khai thác yến sào mang về hàng triệu USD cho tỉnh Khánh Hòa. Dưới mặt vịnh Nha Trang lại có một thế giới kỳ thú khác, đó là thế giới của 350 loài san hô, 190 loài cá, các loài nhuyễn thể, giáp xác, cỏ biển...

Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình mẫu tự nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới. Đó là hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đảo biển, hệ sinh thái bãi cát ven bờ. Đặc biệt khu vực Hòn Mun của Vịnh Nha Trang có đa dạng sinh học cao nhất với 350 loài rạn san hô chiếm 40% san hô trên thế giới.

Tháng 7 năm 2003. cùng với Vịnh Hạ Long, vịnh Nha Trang chính thức công nhận và xếp hạng là một trong 29 Vịnh đẹp nhất trên thế giới.

4. Vịnh Ninh Vân – Nha Trang

Ninh Vân là một hòn đảo xinh đẹp nằm trong quần thể vịnh Nha Trang. Nằm cách Nha Trang hơn 60km, thuộc bán đảo Hòn Hèo, huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa, Ninh Vân vốn được gọi là xã đảo vì không có đường bộ, muốn đi đến đây, duy nhất chỉ có tàu từ Nha Trang qua lại bằng đường biển. Mất khoảng 18 phút đi tàu cao tốc từ thành phố Nha Trang.

Từ tàu cao tốc hướng vào bờ, Ninh Vân không phải là một khu nghỉ mát sang trọng, lộng lẫy như hình dung thông thường. Cảnh thiên nhiên ở đây gần như được giữ nguyên bản với những gì tự nhiên và hoang sơ nhất. Ninh Vân yên bình như một ốc đảo cổ tích xanh mướt hoa cỏ, thiên đường này sở hữu những rặng núi cao, rừng cây xanh ngút tầm mắt. Bãi biển cát trắng nguyên sơ, biển xanh như ngọc hay những rặng san hô ngầm đầy kỳ thú cũng là những yếu tố chính thu hút khách du lịch đến với Ninh Vân.

Nơi đây chỉ thấy những ngôi nhà gỗ nhỏ nằm ngay sát mé bờ biển, trên đá hoặc chếch trên đồi… Chỉ cần vài bước chân, bạn đã có thể xuống biển, để cảm nhận rõ hơn hương vị mằn mặn của biển, hay đơn giản là đùa nghịch với làn nước trong xanh và mát lạnh. Chèo kayak, câu cá hay lên chiếc thuyền gỗ ra xa xa ngắm hoàng hôn xuống dần, để thấy nhịp sống dường như chậm lại, thư thái. Mạo hiểm hơn một chút, bạn có thể tham gia lặn biển, ngắm nhìn những rặng san hô tuyệt đẹp với hệ sinh thái biển phong phú. Tất cả làm nên một ấn tượng đặc biệt với những du khách lần đầu tiên đến nơi đây.

5. Vịnh Vĩnh Hy – Ninh Thuận

Vịnh Vĩnh Hy thuộc làng Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, cách trung tâm thành phố Phan Rang (tỉnh Ninh Thuận) chừng 40km. Từ Phan Rang, du khách sẽ lên thuyền thực hiện hành trình khám phá vịnh Vĩnh Hy. Vịnh Vĩnh Hy được bao bọc bởi những ngọn núi có nhiều hang động kì thú, khí hậu thiên nhiên trong lành, đặc biệt là làn nước xanh và trong đến mức bạn có thể nhìn thấy từng đàn cá cơm bơi quanh mạn thuyền.

Thuyền đưa du khách từ từ rẽ sóng hướng ra biển, đến với vịnh Vĩnh Hy trong mênh mang trời xanh, nước biếc. Vịnh Vĩnh Hy được đánh giá là điểm đến đầy hấp dẫn. Ngồi trên thuyền, giữa lòng vịnh mênh mông, hướng mắt về phía Nam, du khách sẽ thấy những bãi cát dài lượn cong ven chân núi.

Hiện nay, tại Vĩnh Hy đã có nhiều loại hình du lịch biển hấp dẫn, đặc biệt là thú vui đi tàu đáy kính ngắm san hô và cá dưới đáy biển... Tại khu bảo tồn biển Vĩnh Hy có 307 loài san hô quý hiếm, trong đó có 50 loài mới được phát hiện ở Việt Nam. Nếu gặp thời tiết thuận lợi, du khách có thể tham gia một tour lặn biển để được tận mắt chứng kiến những rạn san hô đầy màu sắc dưới đáy biển.

6. Vịnh Xuân Đài – Phú Yên

Từ thành phố Tuy Hòa - Phú yên, đi theo quốc lộ 1A về hướng bắc chừng 45km, vịnh xuân Đài hiện ra như một bức tranh thủy mặc. Vịnh được tạo thành bởi một dãy núi chạy dài ra biển khoảng 15km trông giống hình đầu của một con kỳ lân.

Ít có vịnh nào sự đa dạng đan xen về địa hình như vịnh Xuân Đài. Ghềnh nối tiếp vũng, vũng nối tiếp bãi, bãi nối tiếp núi, uốn lượn trùng điệp. Chỉ riêng vũng đã có hàng chục cái, to nhỏ, nông sâu khác nhau. Xuân Đài cũng có rất nhiều núi, đảo và bán đảo, nơi nào cũng đẹp một cách hoang sơ.

Một nét độc đáo khác của vịnh Xuân Đài là những bãi cát sạch mịn màng, sạch đẹp còn nguyên dáng vẻ hoang sơ như: bãi Than, bãi Vũng Lắm, bãi Trước, bãi Sau, bãi Tràm, bãi Nồm, bãi Ôm, bãi Rạng, bãi Trầu, bãi Nhỏ, bãi Nhàu... Ấn tượng hơn cả là bãi Bình Sa hay còn gọi là bãi Dài. Từ biển nhìn vào, bãi Dài như một dải lụa trắng óng ả chạy dài 5 km, ven những rừng dừa, rừng dương và những ngọn đồi lúp xúp.

Nằm trong danh sách đề cử những vịnh đẹp nhất thế giới, Vịnh Xuân Đài là một trong những thắng cảnh tiêu biểu ở Phú Yên

7. Vịnh Vũng Rô – Phú Yên

Nhìn trên bản đồ Phú Yên, ở góc đông nam có một bán đảo hình dáng như đầu con chim với chiếc mỏ nhọn. Bán đảo ấy được hình thành bởi núi Vũng Rô làm cho bờ biển cao và dốc, ghềnh đá ngổn ngang tạo ra nhiều mũi, phía đông có mũi Mao, mũi Ba, phía nam có mũi La.

Vịnh Vũng Rô rộng 1640ha mặt nước, vịnh có 12 bãi nhỏ: Bãi Lách, Bãi Mù U, Bãi Ngà, Bãi Chùa, Bãi Chân Trâu, Bãi Hồ, Bãi Hàng, Bãi Nhỏ, Bãi Chính, Bãi Bàng, Bãi Lau, Bãi Nhãn với phong cảnh sơn thủy hữu tình, quyến rũ tuyệt vời cho tham quan, tắm biển. Trong lòng biển của Vũng Rô có nhiều loài hải sản, dưới đáy biển là những rạn san hô màu rất hấp dẫn cho các loại hình du lịch câu cá, bơi, lặn.

Các bán đảo này ôm lấy Vũng Rô, tạo nơi đây thành một cảng biển tốt, để tàu thuyền neo đậu, tránh bão, đánh bắt cá. Vũng Rô được các dãy núi Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che chắn cả 3 hướng bắc, đông, tây. Phía nam là cửa biển có đảo Hòn Nưa cao 105m như một pháo đài canh gác cho tàu bè ra vào.

8. Vịnh Hà Tiên – Kiên Giang

Vịnh Hà Tiên (Kiên Giang) có đến 105 đảo lớn nhỏ, trong đó có xã đảo Hòn Nghệ, nơi đang phát triển nghề nuôi cá bè trên biển và có nhiều thắng cảnh du lịch.

Thiên nhiên ưu ái ban tặng cho Hà Tiên một tổng thể hài hòa: núi, biển, đảo và đồng bằng kết hợp thành một vùng đất đẹp như tiên cảnh. Biển Hà Tiên cũng rất dồi dào sản vật ngon và lạ. Có lẽ chính vì vậy mà du khách thích đến với Hà Tiên để ngắm cảnh, để ăn hải sản. Không khó lý giải khi Hà Tiên thu hút lượng khách tham quan đông nhất ở đồng bằng Sông Cửu Long.

9. Vịnh Cam Ranh – Khánh Hòa

Từ lâu người ta chỉ biết Cam Ranh như một hải cảng quân sự hơn là một nơi có tiềm năng du lịch. Trong khi thực tế, thiên nhiên Cam Ranh quá đẹp, rất lý tưởng cho việc xây dựng một khu du lịch biển tầm cỡ thế giới. Vịnh Cam Ranh đích thực là một kỳ quan thiên nhiên.

Nằm cách thành phố Nha Trang (Khánh Hòa) 60km về phía nam, vịnh Cam Ranh trải dài như một dải lụa xanh thẳm đẹp đến mê hồn. Vịnh Cam Ranh quanh năm nắng ấm chan hòa, bầu trời trong xanh tạo cho mặt vịnh một màu xanh rất dễ chịu.

Thiên nhiên ở vịnh Cam Ranh đẹp gần như còn nguyên sơ: những bãi cát trắng vàng, trải dài mịn màng như chưa bao giờ có dấu chân người, dưới lòng vịnh có những rặng san hô và những đàn cá nhiều màu sắc rất đẹp mắt. Nhưng đẹp nhất vẫn là những quần thể ghềnh đá granit do sự xâm thực của gió, của nước biển đã tạo nên những hình thù chồng chất.

Vịnh còn có nhiều bãi tắm hoang sơ tuyệt đẹp, bên cạnh những rặng dừa xanh cao vút, tạo nên nét đặc trưng của miền duyên hải Trung Bộ.
Vịnh Cam Ranh là nơi lý tưởng để tổ chức các loại hình du lịch biển quốc tế như: bơi thuyền, câu cá, lặn biển xem san hô, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, leo núi... không thua kém bất cứ nơi nào trên thế giới.

10. Vịnh Vân Phong – Khánh Hòa

Vịnh Vân Phong thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80km về phía bắc.Vịnh Vân Phong là một vùng vịnh rất rộng và kín đáo.

Vịnh có địa hình rất phong phú, đặc biệt là hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu kín gió, bờ và bãi biển, cồn cát hấp dẫn và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, động thực vật ven biển….

Vịnh có những bãi tắm tuyệt đẹp, hoang sơ cát trắng mịn, nước biển trong vắt như Bãi Tây, Bãi Me, Bãi Búa, Bãi Lách, Bãi Xuân Đừng… Các đảo đẹp trong vịnh phỉa kể đến: Hòn Đỏ, Hòn Ông, Hòn Cổ, Hòn Nước, hòn Bịp ( Điệp Sơn), đi lùi xuống phía nam của vịnh có Đầm Môn, Hòn Gốm….
Trong những năm gần đây, vịnh Vân Phong đã tạo được sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu và khai thác du lịch trong, ngoài nước.

Korean Air! - Theo 24H, internet

Bạn sẽ không khỏi sửng sốt khi tới thăm những vùng vịnh dưới đây của Việt Nam bởi vẻ đẹp như những miền cổ tích.

1. Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh

Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động.
Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền - hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước - Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá - hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi...

Hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước - hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất - hòn Lư Hương... Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc.

Trong lòng các đảo đá trên vịnh còn có những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung...
Ngày 11/11/2011, Vịnh Hạ Long chính thức lọt vào danh sách 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới do Tổ chức New7Wonders tổ chức.

2. Vịnh Lăng Cô – Huế

Thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế) là một vùng đất giàu tiềm năng bởi thiên nhiên, phong cảnh đẹp. Đèo Hải Vân, non xanh nước biếc, núi chạy dài ra sát mép biển. Bên dưới là bãi tắm Lăng Cô phẳng lì, gần như nguyên sơ, nước xanh trong. Nhiều du khách khi tới Huế, được đắm mình trong khung cảnh ở Lăng Cô đã nói rằng "Lăng Cô đẹp hơn tranh thủy mặc".

Lăng Cô lại là một vùng biển hiền hòa, nguyên sơ với một dải cát trắng mịn, mặt nước biển xanh trong. Trước đây, người ta biết đến Lăng Cô như một điểm dừng chân của khách trước khi qua đèo, với vài dãy hàng cơm, một vài điểm bán hàng hải sản khô lèo tèo. Từ khi hầm đường bộ Hải Vân được khởi công xây dựng, thị trấn Lăng Cô mới trở nên nhộn nhịp hơn.

Từ Lăng Cô, vào những ngày đẹp trời, có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh quan khu vườn quốc gia Bạch Mã. Lăng Cô còn có đầm Lập An. Cứ mỗi chiều, từng đàn cò trắng nhấp nhô bay về đầm tìm chỗ ngủ.
Hiện nay, Vịnh Lăng Cô đã chính thức trở thành thành viên thứ 30 của Câu lạc bộ các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays Club).

3. Vịnh Nha Trang – Khánh Hòa

Được che chắn bởi 19 đảo lớn nhỏ, vịnh Nha Trang rộng chừng 500km2 khá kín gió, không có sóng lớn. Trong vịnh Nha Trang có gần mười đảo yến, hằng năm việc khai thác yến sào mang về hàng triệu USD cho tỉnh Khánh Hòa. Dưới mặt vịnh Nha Trang lại có một thế giới kỳ thú khác, đó là thế giới của 350 loài san hô, 190 loài cá, các loài nhuyễn thể, giáp xác, cỏ biển...

Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình mẫu tự nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới. Đó là hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đảo biển, hệ sinh thái bãi cát ven bờ. Đặc biệt khu vực Hòn Mun của Vịnh Nha Trang có đa dạng sinh học cao nhất với 350 loài rạn san hô chiếm 40% san hô trên thế giới.

Tháng 7 năm 2003. cùng với Vịnh Hạ Long, vịnh Nha Trang chính thức công nhận và xếp hạng là một trong 29 Vịnh đẹp nhất trên thế giới.

4. Vịnh Ninh Vân – Nha Trang

Ninh Vân là một hòn đảo xinh đẹp nằm trong quần thể vịnh Nha Trang. Nằm cách Nha Trang hơn 60km, thuộc bán đảo Hòn Hèo, huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa, Ninh Vân vốn được gọi là xã đảo vì không có đường bộ, muốn đi đến đây, duy nhất chỉ có tàu từ Nha Trang qua lại bằng đường biển. Mất khoảng 18 phút đi tàu cao tốc từ thành phố Nha Trang.

Từ tàu cao tốc hướng vào bờ, Ninh Vân không phải là một khu nghỉ mát sang trọng, lộng lẫy như hình dung thông thường. Cảnh thiên nhiên ở đây gần như được giữ nguyên bản với những gì tự nhiên và hoang sơ nhất. Ninh Vân yên bình như một ốc đảo cổ tích xanh mướt hoa cỏ, thiên đường này sở hữu những rặng núi cao, rừng cây xanh ngút tầm mắt. Bãi biển cát trắng nguyên sơ, biển xanh như ngọc hay những rặng san hô ngầm đầy kỳ thú cũng là những yếu tố chính thu hút khách du lịch đến với Ninh Vân.

Nơi đây chỉ thấy những ngôi nhà gỗ nhỏ nằm ngay sát mé bờ biển, trên đá hoặc chếch trên đồi… Chỉ cần vài bước chân, bạn đã có thể xuống biển, để cảm nhận rõ hơn hương vị mằn mặn của biển, hay đơn giản là đùa nghịch với làn nước trong xanh và mát lạnh. Chèo kayak, câu cá hay lên chiếc thuyền gỗ ra xa xa ngắm hoàng hôn xuống dần, để thấy nhịp sống dường như chậm lại, thư thái. Mạo hiểm hơn một chút, bạn có thể tham gia lặn biển, ngắm nhìn những rặng san hô tuyệt đẹp với hệ sinh thái biển phong phú. Tất cả làm nên một ấn tượng đặc biệt với những du khách lần đầu tiên đến nơi đây.

5. Vịnh Vĩnh Hy – Ninh Thuận

Vịnh Vĩnh Hy thuộc làng Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, cách trung tâm thành phố Phan Rang (tỉnh Ninh Thuận) chừng 40km. Từ Phan Rang, du khách sẽ lên thuyền thực hiện hành trình khám phá vịnh Vĩnh Hy. Vịnh Vĩnh Hy được bao bọc bởi những ngọn núi có nhiều hang động kì thú, khí hậu thiên nhiên trong lành, đặc biệt là làn nước xanh và trong đến mức bạn có thể nhìn thấy từng đàn cá cơm bơi quanh mạn thuyền.

Thuyền đưa du khách từ từ rẽ sóng hướng ra biển, đến với vịnh Vĩnh Hy trong mênh mang trời xanh, nước biếc. Vịnh Vĩnh Hy được đánh giá là điểm đến đầy hấp dẫn. Ngồi trên thuyền, giữa lòng vịnh mênh mông, hướng mắt về phía Nam, du khách sẽ thấy những bãi cát dài lượn cong ven chân núi.

Hiện nay, tại Vĩnh Hy đã có nhiều loại hình du lịch biển hấp dẫn, đặc biệt là thú vui đi tàu đáy kính ngắm san hô và cá dưới đáy biển... Tại khu bảo tồn biển Vĩnh Hy có 307 loài san hô quý hiếm, trong đó có 50 loài mới được phát hiện ở Việt Nam. Nếu gặp thời tiết thuận lợi, du khách có thể tham gia một tour lặn biển để được tận mắt chứng kiến những rạn san hô đầy màu sắc dưới đáy biển.

6. Vịnh Xuân Đài – Phú Yên

Từ thành phố Tuy Hòa - Phú yên, đi theo quốc lộ 1A về hướng bắc chừng 45km, vịnh xuân Đài hiện ra như một bức tranh thủy mặc. Vịnh được tạo thành bởi một dãy núi chạy dài ra biển khoảng 15km trông giống hình đầu của một con kỳ lân.

Ít có vịnh nào sự đa dạng đan xen về địa hình như vịnh Xuân Đài. Ghềnh nối tiếp vũng, vũng nối tiếp bãi, bãi nối tiếp núi, uốn lượn trùng điệp. Chỉ riêng vũng đã có hàng chục cái, to nhỏ, nông sâu khác nhau. Xuân Đài cũng có rất nhiều núi, đảo và bán đảo, nơi nào cũng đẹp một cách hoang sơ.

Một nét độc đáo khác của vịnh Xuân Đài là những bãi cát sạch mịn màng, sạch đẹp còn nguyên dáng vẻ hoang sơ như: bãi Than, bãi Vũng Lắm, bãi Trước, bãi Sau, bãi Tràm, bãi Nồm, bãi Ôm, bãi Rạng, bãi Trầu, bãi Nhỏ, bãi Nhàu... Ấn tượng hơn cả là bãi Bình Sa hay còn gọi là bãi Dài. Từ biển nhìn vào, bãi Dài như một dải lụa trắng óng ả chạy dài 5 km, ven những rừng dừa, rừng dương và những ngọn đồi lúp xúp.

Nằm trong danh sách đề cử những vịnh đẹp nhất thế giới, Vịnh Xuân Đài là một trong những thắng cảnh tiêu biểu ở Phú Yên

7. Vịnh Vũng Rô – Phú Yên

Nhìn trên bản đồ Phú Yên, ở góc đông nam có một bán đảo hình dáng như đầu con chim với chiếc mỏ nhọn. Bán đảo ấy được hình thành bởi núi Vũng Rô làm cho bờ biển cao và dốc, ghềnh đá ngổn ngang tạo ra nhiều mũi, phía đông có mũi Mao, mũi Ba, phía nam có mũi La.

Vịnh Vũng Rô rộng 1640ha mặt nước, vịnh có 12 bãi nhỏ: Bãi Lách, Bãi Mù U, Bãi Ngà, Bãi Chùa, Bãi Chân Trâu, Bãi Hồ, Bãi Hàng, Bãi Nhỏ, Bãi Chính, Bãi Bàng, Bãi Lau, Bãi Nhãn với phong cảnh sơn thủy hữu tình, quyến rũ tuyệt vời cho tham quan, tắm biển. Trong lòng biển của Vũng Rô có nhiều loài hải sản, dưới đáy biển là những rạn san hô màu rất hấp dẫn cho các loại hình du lịch câu cá, bơi, lặn.

Các bán đảo này ôm lấy Vũng Rô, tạo nơi đây thành một cảng biển tốt, để tàu thuyền neo đậu, tránh bão, đánh bắt cá. Vũng Rô được các dãy núi Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che chắn cả 3 hướng bắc, đông, tây. Phía nam là cửa biển có đảo Hòn Nưa cao 105m như một pháo đài canh gác cho tàu bè ra vào.

8. Vịnh Hà Tiên – Kiên Giang

Vịnh Hà Tiên (Kiên Giang) có đến 105 đảo lớn nhỏ, trong đó có xã đảo Hòn Nghệ, nơi đang phát triển nghề nuôi cá bè trên biển và có nhiều thắng cảnh du lịch.

Thiên nhiên ưu ái ban tặng cho Hà Tiên một tổng thể hài hòa: núi, biển, đảo và đồng bằng kết hợp thành một vùng đất đẹp như tiên cảnh. Biển Hà Tiên cũng rất dồi dào sản vật ngon và lạ. Có lẽ chính vì vậy mà du khách thích đến với Hà Tiên để ngắm cảnh, để ăn hải sản. Không khó lý giải khi Hà Tiên thu hút lượng khách tham quan đông nhất ở đồng bằng Sông Cửu Long.

9. Vịnh Cam Ranh – Khánh Hòa

Từ lâu người ta chỉ biết Cam Ranh như một hải cảng quân sự hơn là một nơi có tiềm năng du lịch. Trong khi thực tế, thiên nhiên Cam Ranh quá đẹp, rất lý tưởng cho việc xây dựng một khu du lịch biển tầm cỡ thế giới. Vịnh Cam Ranh đích thực là một kỳ quan thiên nhiên.

Nằm cách thành phố Nha Trang (Khánh Hòa) 60km về phía nam, vịnh Cam Ranh trải dài như một dải lụa xanh thẳm đẹp đến mê hồn. Vịnh Cam Ranh quanh năm nắng ấm chan hòa, bầu trời trong xanh tạo cho mặt vịnh một màu xanh rất dễ chịu.

Thiên nhiên ở vịnh Cam Ranh đẹp gần như còn nguyên sơ: những bãi cát trắng vàng, trải dài mịn màng như chưa bao giờ có dấu chân người, dưới lòng vịnh có những rặng san hô và những đàn cá nhiều màu sắc rất đẹp mắt. Nhưng đẹp nhất vẫn là những quần thể ghềnh đá granit do sự xâm thực của gió, của nước biển đã tạo nên những hình thù chồng chất.

Vịnh còn có nhiều bãi tắm hoang sơ tuyệt đẹp, bên cạnh những rặng dừa xanh cao vút, tạo nên nét đặc trưng của miền duyên hải Trung Bộ.
Vịnh Cam Ranh là nơi lý tưởng để tổ chức các loại hình du lịch biển quốc tế như: bơi thuyền, câu cá, lặn biển xem san hô, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, leo núi... không thua kém bất cứ nơi nào trên thế giới.

10. Vịnh Vân Phong – Khánh Hòa

Vịnh Vân Phong thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80km về phía bắc.Vịnh Vân Phong là một vùng vịnh rất rộng và kín đáo.

Vịnh có địa hình rất phong phú, đặc biệt là hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu kín gió, bờ và bãi biển, cồn cát hấp dẫn và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, động thực vật ven biển….

Vịnh có những bãi tắm tuyệt đẹp, hoang sơ cát trắng mịn, nước biển trong vắt như Bãi Tây, Bãi Me, Bãi Búa, Bãi Lách, Bãi Xuân Đừng… Các đảo đẹp trong vịnh phỉa kể đến: Hòn Đỏ, Hòn Ông, Hòn Cổ, Hòn Nước, hòn Bịp ( Điệp Sơn), đi lùi xuống phía nam của vịnh có Đầm Môn, Hòn Gốm….
Trong những năm gần đây, vịnh Vân Phong đã tạo được sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu và khai thác du lịch trong, ngoài nước.

Korean Air! - Theo 24H, internet

5 giờ chiều của một ngày cuối tháng 12, Trần Ngẵng, ngụ tại thôn Tiến Phú, xã Tiến Thành cùng nhóm bạn lại gặp nhau trên bãi biển, nơi cách hòn đảo nhỏ và ngọn hải đăng nổi tiếng Kê Gà của xã Tân Thành, Hàm Thuận Nam (Phan Thiết) chỉ 5 phút đi ca nô.

Đó cũng là nơi mà bờ đá nhô ra biển  cùng vòng cung của hòn đảo tạo nên một vũng nhỏ, ít sóng. Trên bãi biển ấy, Ngẵng và  nhóm bạn sẽ câu suốt đêm. Để chuẩn bị cho cả đêm câu ấy, mỗi người đều chọn một đoạn bãi rồi tự tay chôn những chiếc ống nhựa Bình Minh cắt ngắn xuống nền cát theo một khoảng cách nhất định. Sau đó, họ cắm từng chiếc cần câu máy vào từng ống nhựa, nhờ vậy mà trong suốt  đêm gió và khi cá giật, cần câu cũng chỉ cong chứ không ngã xuống cát.

Ngẵng cho hay: Từ đây đến ngày 30 tết Quý Tỵ, Ngẵng và bạn bè đều có mặt tại bãi để câu cá hanh, một loài cá  sống ở hồ đầm và ngoài biển khơi. Một loài cá háu ăn nên rất dễ câu. Cá hanh, theo như Ngẵng cho biết thường đi ăn từng đàn vào lúc bình minh, hoàng hôn và không ăn một chỗ nào lâu.

Những người câu như Ngẵng đều sắm mỗi người trên dưới  một chục chiếc cần, cắm dọc theo bãi để… đón đợi cá. Có nhiều loại mồi câu nhưng tại  bãi Kê Gà, những người câu đêm đều chọn tôm tít, loại tôm có nhiều khoang, làm mồi.

Mỗi chiếc cần  có nhiều lưỡi, ở những vị trí khác nhau nên lượng tôm tít cần cho mỗi người câu trong một đêm phải trên 100 con. Điều này giải thích vì sao Ngẵng có 3 chiếc hộp đồ nghề đi câu.

Chiếc hộp to nhất đựng một chục chiếc bánh quy với lời giải thích “nhai cho vui miệng lúc ban đêm”, chiếc thứ hai đựng cước và lưỡi, chiếc  còn lại đựng mồi câu”.
Chuẩn bị mồi cho việc câu suốt đêm.

Văn hóa đi câu

“Trong  lúc câu đêm có qua lại nói chuyện, hoặc san sẻ cá cho nhau?”- tôi hỏi. Ngẵng không trả lời ngay  mà chỉ  từng nhóm cần câu của mỗi người cắm trên bãi, nói: “Có một quy định bất thành văn trong nghề câu là không đi lại lộn xộn, chiếm chỗ của nhau; không bí mật lấy mồi nhau; không vì lý do nào đó mà ganh ghét bạn câu được cá to; không quăng câu ngang dọc, làm vướng đường thu dây của bạn”… Do vậy, tiếng là câu đêm nhưng “giang sơn” ai người ấy biết!

Những người câu đêm chỉ biết nhau qua tiếng thu dây câu, tiếng cá quẫy khi lên gần bờ. Trong quá trình câu, ít ai tán chuyện gì; có chăng là  nhìn  ánh đèn pin mà đoán người câu bên cạnh đã mấy lần được cá hoặc mấy lần phải thay mồi.

“Người câu đêm phải trang bị cho mình những thứ cần thiết như: nước uống, thuốc hút, dầu xoa (nếu thầy cần)”, Ngẵng nói.

Đang trong lúc nói chuyện, tôi chú ý đến một thanh niên ngồi bó gối cách Ngẵng khoảng 20 bước chân.  Anh thanh niên đăm đăm nhìn ra mặt nước, trong khi cạnh đó là hai chiếc cần câu có phần hơi ngã về phía trước.

Tôi hỏi Ngẵng: “Cá cắn câu sao bạn ấy không giật?”. Ngẵng lắc đầu: “Nước chuyển đó anh. Trên bề mặt mình không thấy gì nhưng bên dưới đã bắt đầu chảy. Cần bị cong một phần là do sức nước, còn nếu cá cắn câu thì đầu cần sẽ giật nhẹ liên tục trước khi cong vòng. Khoảng nửa tiếng nữa khi đêm xuống hẳn, tụi em phải căng tai ra nghe, chốc chốc  phải bấm đèn pin quan sát từng cần câu”.

Thức với đêm sâu

Đêm mỗi lúc một xuống nhanh, những người câu cá biển ban đêm không ai bảo ai đều đứng lên, mắt hướng về phía vũng nước, về ngọn hải đăng Kê Gà. Sóng biển vẫn vỗ ì oạp. Những chiếc cần câu có vẻ như mỗi lúc một cong hơn. Tôi đoán là nước đang rút và những người câu đêm sẽ phải tập trung cả tai, mắt vào đó.

Tôi hỏi Ngẵng một câu vì sợ quên: “Một đêm câu được khoảng bao nhiêu cá?”. “Vài ký. Đủ cho vợ đi chợ. Nhưng nhiêu đó đã là quý với tụi em vì bây giờ tìm việc làm khó lắm. Có việc làm dù nhỏ vẫn hơn ngồi không rồi sinh hư”. Tôi nghe tiếng cười nhỏ của Ngẵng. Đêm của những người câu biển xao xát làm sao!

Korean Air! - Theo Hà Thanh Tú (Bình Thuận Online), internet

5 giờ chiều của một ngày cuối tháng 12, Trần Ngẵng, ngụ tại thôn Tiến Phú, xã Tiến Thành cùng nhóm bạn lại gặp nhau trên bãi biển, nơi cách hòn đảo nhỏ và ngọn hải đăng nổi tiếng Kê Gà của xã Tân Thành, Hàm Thuận Nam (Phan Thiết) chỉ 5 phút đi ca nô.

Đó cũng là nơi mà bờ đá nhô ra biển  cùng vòng cung của hòn đảo tạo nên một vũng nhỏ, ít sóng. Trên bãi biển ấy, Ngẵng và  nhóm bạn sẽ câu suốt đêm. Để chuẩn bị cho cả đêm câu ấy, mỗi người đều chọn một đoạn bãi rồi tự tay chôn những chiếc ống nhựa Bình Minh cắt ngắn xuống nền cát theo một khoảng cách nhất định. Sau đó, họ cắm từng chiếc cần câu máy vào từng ống nhựa, nhờ vậy mà trong suốt  đêm gió và khi cá giật, cần câu cũng chỉ cong chứ không ngã xuống cát.

Ngẵng cho hay: Từ đây đến ngày 30 tết Quý Tỵ, Ngẵng và bạn bè đều có mặt tại bãi để câu cá hanh, một loài cá  sống ở hồ đầm và ngoài biển khơi. Một loài cá háu ăn nên rất dễ câu. Cá hanh, theo như Ngẵng cho biết thường đi ăn từng đàn vào lúc bình minh, hoàng hôn và không ăn một chỗ nào lâu.

Những người câu như Ngẵng đều sắm mỗi người trên dưới  một chục chiếc cần, cắm dọc theo bãi để… đón đợi cá. Có nhiều loại mồi câu nhưng tại  bãi Kê Gà, những người câu đêm đều chọn tôm tít, loại tôm có nhiều khoang, làm mồi.

Mỗi chiếc cần  có nhiều lưỡi, ở những vị trí khác nhau nên lượng tôm tít cần cho mỗi người câu trong một đêm phải trên 100 con. Điều này giải thích vì sao Ngẵng có 3 chiếc hộp đồ nghề đi câu.

Chiếc hộp to nhất đựng một chục chiếc bánh quy với lời giải thích “nhai cho vui miệng lúc ban đêm”, chiếc thứ hai đựng cước và lưỡi, chiếc  còn lại đựng mồi câu”.
Chuẩn bị mồi cho việc câu suốt đêm.

Văn hóa đi câu

“Trong  lúc câu đêm có qua lại nói chuyện, hoặc san sẻ cá cho nhau?”- tôi hỏi. Ngẵng không trả lời ngay  mà chỉ  từng nhóm cần câu của mỗi người cắm trên bãi, nói: “Có một quy định bất thành văn trong nghề câu là không đi lại lộn xộn, chiếm chỗ của nhau; không bí mật lấy mồi nhau; không vì lý do nào đó mà ganh ghét bạn câu được cá to; không quăng câu ngang dọc, làm vướng đường thu dây của bạn”… Do vậy, tiếng là câu đêm nhưng “giang sơn” ai người ấy biết!

Những người câu đêm chỉ biết nhau qua tiếng thu dây câu, tiếng cá quẫy khi lên gần bờ. Trong quá trình câu, ít ai tán chuyện gì; có chăng là  nhìn  ánh đèn pin mà đoán người câu bên cạnh đã mấy lần được cá hoặc mấy lần phải thay mồi.

“Người câu đêm phải trang bị cho mình những thứ cần thiết như: nước uống, thuốc hút, dầu xoa (nếu thầy cần)”, Ngẵng nói.

Đang trong lúc nói chuyện, tôi chú ý đến một thanh niên ngồi bó gối cách Ngẵng khoảng 20 bước chân.  Anh thanh niên đăm đăm nhìn ra mặt nước, trong khi cạnh đó là hai chiếc cần câu có phần hơi ngã về phía trước.

Tôi hỏi Ngẵng: “Cá cắn câu sao bạn ấy không giật?”. Ngẵng lắc đầu: “Nước chuyển đó anh. Trên bề mặt mình không thấy gì nhưng bên dưới đã bắt đầu chảy. Cần bị cong một phần là do sức nước, còn nếu cá cắn câu thì đầu cần sẽ giật nhẹ liên tục trước khi cong vòng. Khoảng nửa tiếng nữa khi đêm xuống hẳn, tụi em phải căng tai ra nghe, chốc chốc  phải bấm đèn pin quan sát từng cần câu”.

Thức với đêm sâu

Đêm mỗi lúc một xuống nhanh, những người câu cá biển ban đêm không ai bảo ai đều đứng lên, mắt hướng về phía vũng nước, về ngọn hải đăng Kê Gà. Sóng biển vẫn vỗ ì oạp. Những chiếc cần câu có vẻ như mỗi lúc một cong hơn. Tôi đoán là nước đang rút và những người câu đêm sẽ phải tập trung cả tai, mắt vào đó.

Tôi hỏi Ngẵng một câu vì sợ quên: “Một đêm câu được khoảng bao nhiêu cá?”. “Vài ký. Đủ cho vợ đi chợ. Nhưng nhiêu đó đã là quý với tụi em vì bây giờ tìm việc làm khó lắm. Có việc làm dù nhỏ vẫn hơn ngồi không rồi sinh hư”. Tôi nghe tiếng cười nhỏ của Ngẵng. Đêm của những người câu biển xao xát làm sao!

Korean Air! - Theo Hà Thanh Tú (Bình Thuận Online), internet

Muốn thăm “biển miệt vườn” để bình yên ngắm mây trời, thong thả dạo bước, lắng nghe từng hạt cát mịn êm chảy qua chân và ngó biển sinh sôi, coi “nhà vườn” nuôi trồng trên biển, xin mời về đây: biển Gò Công.

Nếu định đến tắm biển Tân Thành (thuộc huyện Gò Công Đông- Tiền Giang), bạn hẳn sẽ thất vọng, vì bãi biển… đen thui. Nhưng đây thật sự là một trong những bãi biển cát đen đẹp nhất Việt Nam. Khi bạn đặt chân xuống cát, sẽ cảm nhận được lớp cát mềm mịn êm nhung, và cứ vậy… đi hoài ra phía biển giăng giăng sóng bạc.

Bãi biển Gò Công không thoai thoải mà phẳng như mặt ao, kéo dài ra hàng cây số. Bạn cứ việc tung tăng đi trên cát, vọc cát, vọc nước và ngơ ngẩn ngó những chòi canh nghêu chênh vênh giữa biển trời.
Đứng chờ hồi lâu mới làm quen được với anh Nguyễn Thanh Danh đang bận rộn nói chuyện điện thoại về giá nghêu, giờ giao nghêu… Anh vui vẻ cho biết: Cũng được lắm. Nghêu năm nay không bị bệnh hoạn như năm trước, hiện giá nghêu từ 30.000- 34.000 đ/kg loại 30- 40 con/kg.

Nếu tính trung bình nuôi đạt 15– 20 tấn/ha, thì người nuôi có thể lời tới vài trăm triệu đồng/ha. Nhắc lại “chuyện xưa”, anh Danh nói, hồi trước giờ tự nhiên đã có con nghêu sinh sống ở biển Tân Thành này rồi. Nghêu Gò Công nổi tiếng ngọt, mềm lại thơm. Nhưng hồi đó giá nghêu cũng bấp bênh, chỉ vài ba ngàn đồng một ký, là món ăn “con nhà nghèo” nấu canh giá hẹ.

Chỉ từ khi nghêu được bước vào thị trường xuất khẩu thì giá nghêu mới tăng vùn vụt, lên tới vài chục ngàn đồng một ký như bây giờ và người khá giả mới dám ăn nghêu. Cũng từ đó, dân miệt biển Gò Công mới nghĩ đến chuyện nuôi nghêu- để trở thành một trong những nơi có nghề nuôi nghêu sớm nhất.

Vùng ven biển miền Tây ít sóng gió, đáy cát pha bùn, nhiều thức ăn, nên từ Tiền Giang qua Bến Tre đến Sóc Trăng, Cà Mau… đều là nơi nghêu ưa trú ngụ. Một trong những vùng nuôi nghêu lớn nhất và có sản lượng cao nhất phải kể đến biển Gò Công Đông của Tiền Giang.

Ở đây, nhiều người dân coi “con nghêu là đầu cơ nghiệp”, nổi tiếng với “kiện tướng nuôi nghêu” Trần Văn Chỉ với sân nghêu hàng vài hecta, hay “vua nghêu giống” Trần Văn Vinh thành công trong sinh sản nhân tạo nghêu, cung cấp cả tỷ con nghêu giống mỗi năm.

Theo số liệu chúng tôi có được, huyện Gò Công Đông hiện có trên 2.000ha biển nuôi nghêu, trong đó, có 350ha là bãi sinh nghêu giống tự nhiên tập trung tại xã Tân Thành, ven vàm Cửa Tiểu. Hàng năm cung ứng trên 20.000 tấn nghêu cho thị trường.

Theo anh Danh, nuôi nghêu cực kỳ đơn giản. Chỉ cần mua nghêu giống về thả xuống bãi biển vào khoảng tháng 4 rồi thu hoạch vào cuối năm sau. Nghêu “nhướng” nhỏ xíu xiu, tới cả ngàn con/kg, nuôi năm rưỡi, đạt thương phẩm 30- 40 con/kg.

Biển Tân Thành có nguồn thức ăn trời cho, người nuôi nghêu chẳng tốn đồng thức ăn nào (lẽ ra phải gọi là người giữ nghêu mới đúng), chi phí tốn kém nhất là mua nghêu giống, giăng lưới, cất chòi, thuê người giữ nghêu… Cứ vậy mà trời biển nuôi dùm.

< Nghêu giống.

Nói vậy, chứ hiện nay nghề nuôi nghêu cũng lắm khó khăn. Chú Lê Văn Tấn- cũng là người dân tại đây cho biết: giá giống tăng cao, nghêu bệnh chết nhiều, vài năm gần đây, cứ khoảng tháng Chạp đến tháng 3 năm sau, nghêu thường chết hàng loạt mà chưa rõ nguyên nhân, có hộ trắng tay.

Người nuôi thì cho là do ô nhiễm nguồn nước. Biển Gò Công Đông thật sự là biển của làm ăn. Với gần 12.000km2 mặt biển, đây là ngư trường giàu tôm cá, thuận lợi nuôi trồng thủy- hải sản có giá trị cao như nghêu, sò huyết, tôm sú, tôm thẻ,…

Chú Tấn cho biết, hàng ngày chú tranh thủ thả vài trăm mét lưới đánh cá ven bờ, cứ một hai ngày là được vài ba con cá chét hoặc cá chẽm cỡ 3- 4 kg/con. Hiện giá cá chét tươi tại đây từ 150.000- 200.000 đ/kg, còn khô cá chét không dưới 500.000 đ/kg. Cá chẽm rẻ hơn nhưng cũng từ 80.000- 120.000 đ/kg.

Hai mẹ con chị Nhan đang đi thong thả trên bãi biển, tay cắp chiếc rổ nhỏ, trông cứ tưởng như đi chơi, nhưng thật ra là đang đi bắt con móng tay. “Đồ nghề” của mẹ con chị rất đơn giản, chỉ là một que tăm tre dài chừng 20cm, thêm một bịt vôi ăn trầu nhỏ xíu.

Vừa đi vừa giậm giậm chân, thấy chút bọt khí nổi lên là biết hang của móng tay, chấm khẽ chút vôi, chỉ vài giây sau, móng tay từ trong cát trồi lên. Chị Nhan nói ngày nào cũng đi bắt từ sáng khi nước ròng cho tới trưa nước lớn ngập bãi, cũng được 1- 2kg. Móng tay ăn ngon, thịt mềm, ngọt, nhưng giá khá mềm, chỉ 50.000 đ/kg.

< Du khách thích thú chạy chân trần trên bãi cát đen.

Biển Gò Công còn có món ăn đặc biệt đãi khách phương xa là con sam. Nếu từng nghe chuyện cổ tích về đôi vợ chồng sam gắn bó không rời, thì bạn rất dễ… thất vọng, vì hình dáng con sam rất xấu.

Thân có mai to đầy gai góc, màu xanh xám xịt và chiếc đuôi dài nhọn hoắt. Sam mùa này được cho là đầy trứng béo bùi, giá chỉ 10.000 đ/con. Nhưng nghe đâu con sam cũng có chất cực độc như cá nóc nếu làm không khéo, nên chuyện mua bán sam để ăn cũng cần được xem xét kỹ ở các điểm du lịch.

Từ Mỹ Tho, trên Quốc lộ 1, rẽ vào Quốc lộ 50 chừng 50km là tới Gò Công và đi thêm hơn chục cây số nữa để tới biển Tân Thành. Không chỉ có “biển một bên và… nghêu một bên” làm mềm lòng du khách, Gò Công còn là vùng đất của rất nhiều di tích lịch sử.

< Những con ốc nhỏ bám đầy trên các cọc gỗ và đầy bãi biển Gò Công.

Đây là vùng đất đã sinh ra 2 bậc mẫu nghi thiên hạ là Hoàng Thái hậu Từ Dũ và Hoàng hậu Nam Phương. Đồng thời đây cũng là quê hương của các anh hùng dân tộc Trương Định, Võ Tánh. Chúng tôi hẹn sẽ cùng bạn trở lại Gò Công với các di tích lịch sử của chốn này.

Con đường từ Sài Gòn đi Gò Công dài khoảng 60 km, qua bắc Mỹ Lợi (ngày xưa gọi bắc Cầu Nổi). Từ thị xã Gò Công, vượt thêm 16 km nữa để tới Tân Thành. Đây là đoạn đường hấp dẫn đối với bất cứ du khách nào.

Đầu tiên là bạn sẽ có dịp ghé thăm Khu di tích Lăng Hoàng Gia rộng khoảng 4.000 m2, với nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Nguyễn Thị Hằng (Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức). Kế đó là xã Hòa Nghị. Ngoài cây dầu cổ thụ sống mấy trăm năm, nơi đây còn được mệnh danh là “quê hương trái sơ ri”.

< Chú Tấn: Bãi nuôi nghêu kéo dài tới xa tuốt ngoài kia hàng cây số.

Tiếp theo, bạn đến thăm đền thờ Trương Định ở xã Tân Hòa - nơi khởi binh chống Pháp của người anh hùng dân tộc lừng lẫy với địa danh “Đám lá tối trời” mà thực dân và tay sai khi nghe tới đều rụng rời tay chân, khiếp đảm tinh thần. Thưởng thức các món đặc sản Tân Hòa như bánh giá, mắm còng và mắm tôm chua với rượu sơ ri xong, bạn sẽ rong xe tới biển Tân Thành.

Biển Tân Thành dài khoảng 7 km. Riêng Khu du lịch biển Tân Thành đã được làm bờ kè dài gần 300 m. Bờ kè tuy đẹp, giúp ngăn chặn những cơn sóng dữ mùa gió chướng làm sạt lở bờ nhưng lại khiến nó trở thành bờ biển “chết”, vì chẳng mấy du khách đoái hoài tới chuyện đùa giỡn thỏa thuê với con sóng từ đại dương ùa vào. Tại đây, nhìn ra xa thấy những chiếc chòi giữ nghêu cao lênh khênh trên sóng biển. Nhưng, điều hấp dẫn du khách đến với Tân Thành chính là đặc sản biển.

Korean Air! - Theo Vĩnh Long Online, báo Hậu Giang, internet

Muốn thăm “biển miệt vườn” để bình yên ngắm mây trời, thong thả dạo bước, lắng nghe từng hạt cát mịn êm chảy qua chân và ngó biển sinh sôi, coi “nhà vườn” nuôi trồng trên biển, xin mời về đây: biển Gò Công.

Nếu định đến tắm biển Tân Thành (thuộc huyện Gò Công Đông- Tiền Giang), bạn hẳn sẽ thất vọng, vì bãi biển… đen thui. Nhưng đây thật sự là một trong những bãi biển cát đen đẹp nhất Việt Nam. Khi bạn đặt chân xuống cát, sẽ cảm nhận được lớp cát mềm mịn êm nhung, và cứ vậy… đi hoài ra phía biển giăng giăng sóng bạc.

Bãi biển Gò Công không thoai thoải mà phẳng như mặt ao, kéo dài ra hàng cây số. Bạn cứ việc tung tăng đi trên cát, vọc cát, vọc nước và ngơ ngẩn ngó những chòi canh nghêu chênh vênh giữa biển trời.
Đứng chờ hồi lâu mới làm quen được với anh Nguyễn Thanh Danh đang bận rộn nói chuyện điện thoại về giá nghêu, giờ giao nghêu… Anh vui vẻ cho biết: Cũng được lắm. Nghêu năm nay không bị bệnh hoạn như năm trước, hiện giá nghêu từ 30.000- 34.000 đ/kg loại 30- 40 con/kg.

Nếu tính trung bình nuôi đạt 15– 20 tấn/ha, thì người nuôi có thể lời tới vài trăm triệu đồng/ha. Nhắc lại “chuyện xưa”, anh Danh nói, hồi trước giờ tự nhiên đã có con nghêu sinh sống ở biển Tân Thành này rồi. Nghêu Gò Công nổi tiếng ngọt, mềm lại thơm. Nhưng hồi đó giá nghêu cũng bấp bênh, chỉ vài ba ngàn đồng một ký, là món ăn “con nhà nghèo” nấu canh giá hẹ.

Chỉ từ khi nghêu được bước vào thị trường xuất khẩu thì giá nghêu mới tăng vùn vụt, lên tới vài chục ngàn đồng một ký như bây giờ và người khá giả mới dám ăn nghêu. Cũng từ đó, dân miệt biển Gò Công mới nghĩ đến chuyện nuôi nghêu- để trở thành một trong những nơi có nghề nuôi nghêu sớm nhất.

Vùng ven biển miền Tây ít sóng gió, đáy cát pha bùn, nhiều thức ăn, nên từ Tiền Giang qua Bến Tre đến Sóc Trăng, Cà Mau… đều là nơi nghêu ưa trú ngụ. Một trong những vùng nuôi nghêu lớn nhất và có sản lượng cao nhất phải kể đến biển Gò Công Đông của Tiền Giang.

Ở đây, nhiều người dân coi “con nghêu là đầu cơ nghiệp”, nổi tiếng với “kiện tướng nuôi nghêu” Trần Văn Chỉ với sân nghêu hàng vài hecta, hay “vua nghêu giống” Trần Văn Vinh thành công trong sinh sản nhân tạo nghêu, cung cấp cả tỷ con nghêu giống mỗi năm.

Theo số liệu chúng tôi có được, huyện Gò Công Đông hiện có trên 2.000ha biển nuôi nghêu, trong đó, có 350ha là bãi sinh nghêu giống tự nhiên tập trung tại xã Tân Thành, ven vàm Cửa Tiểu. Hàng năm cung ứng trên 20.000 tấn nghêu cho thị trường.

Theo anh Danh, nuôi nghêu cực kỳ đơn giản. Chỉ cần mua nghêu giống về thả xuống bãi biển vào khoảng tháng 4 rồi thu hoạch vào cuối năm sau. Nghêu “nhướng” nhỏ xíu xiu, tới cả ngàn con/kg, nuôi năm rưỡi, đạt thương phẩm 30- 40 con/kg.

Biển Tân Thành có nguồn thức ăn trời cho, người nuôi nghêu chẳng tốn đồng thức ăn nào (lẽ ra phải gọi là người giữ nghêu mới đúng), chi phí tốn kém nhất là mua nghêu giống, giăng lưới, cất chòi, thuê người giữ nghêu… Cứ vậy mà trời biển nuôi dùm.

< Nghêu giống.

Nói vậy, chứ hiện nay nghề nuôi nghêu cũng lắm khó khăn. Chú Lê Văn Tấn- cũng là người dân tại đây cho biết: giá giống tăng cao, nghêu bệnh chết nhiều, vài năm gần đây, cứ khoảng tháng Chạp đến tháng 3 năm sau, nghêu thường chết hàng loạt mà chưa rõ nguyên nhân, có hộ trắng tay.

Người nuôi thì cho là do ô nhiễm nguồn nước. Biển Gò Công Đông thật sự là biển của làm ăn. Với gần 12.000km2 mặt biển, đây là ngư trường giàu tôm cá, thuận lợi nuôi trồng thủy- hải sản có giá trị cao như nghêu, sò huyết, tôm sú, tôm thẻ,…

Chú Tấn cho biết, hàng ngày chú tranh thủ thả vài trăm mét lưới đánh cá ven bờ, cứ một hai ngày là được vài ba con cá chét hoặc cá chẽm cỡ 3- 4 kg/con. Hiện giá cá chét tươi tại đây từ 150.000- 200.000 đ/kg, còn khô cá chét không dưới 500.000 đ/kg. Cá chẽm rẻ hơn nhưng cũng từ 80.000- 120.000 đ/kg.

Hai mẹ con chị Nhan đang đi thong thả trên bãi biển, tay cắp chiếc rổ nhỏ, trông cứ tưởng như đi chơi, nhưng thật ra là đang đi bắt con móng tay. “Đồ nghề” của mẹ con chị rất đơn giản, chỉ là một que tăm tre dài chừng 20cm, thêm một bịt vôi ăn trầu nhỏ xíu.

Vừa đi vừa giậm giậm chân, thấy chút bọt khí nổi lên là biết hang của móng tay, chấm khẽ chút vôi, chỉ vài giây sau, móng tay từ trong cát trồi lên. Chị Nhan nói ngày nào cũng đi bắt từ sáng khi nước ròng cho tới trưa nước lớn ngập bãi, cũng được 1- 2kg. Móng tay ăn ngon, thịt mềm, ngọt, nhưng giá khá mềm, chỉ 50.000 đ/kg.

< Du khách thích thú chạy chân trần trên bãi cát đen.

Biển Gò Công còn có món ăn đặc biệt đãi khách phương xa là con sam. Nếu từng nghe chuyện cổ tích về đôi vợ chồng sam gắn bó không rời, thì bạn rất dễ… thất vọng, vì hình dáng con sam rất xấu.

Thân có mai to đầy gai góc, màu xanh xám xịt và chiếc đuôi dài nhọn hoắt. Sam mùa này được cho là đầy trứng béo bùi, giá chỉ 10.000 đ/con. Nhưng nghe đâu con sam cũng có chất cực độc như cá nóc nếu làm không khéo, nên chuyện mua bán sam để ăn cũng cần được xem xét kỹ ở các điểm du lịch.

Từ Mỹ Tho, trên Quốc lộ 1, rẽ vào Quốc lộ 50 chừng 50km là tới Gò Công và đi thêm hơn chục cây số nữa để tới biển Tân Thành. Không chỉ có “biển một bên và… nghêu một bên” làm mềm lòng du khách, Gò Công còn là vùng đất của rất nhiều di tích lịch sử.

< Những con ốc nhỏ bám đầy trên các cọc gỗ và đầy bãi biển Gò Công.

Đây là vùng đất đã sinh ra 2 bậc mẫu nghi thiên hạ là Hoàng Thái hậu Từ Dũ và Hoàng hậu Nam Phương. Đồng thời đây cũng là quê hương của các anh hùng dân tộc Trương Định, Võ Tánh. Chúng tôi hẹn sẽ cùng bạn trở lại Gò Công với các di tích lịch sử của chốn này.

Con đường từ Sài Gòn đi Gò Công dài khoảng 60 km, qua bắc Mỹ Lợi (ngày xưa gọi bắc Cầu Nổi). Từ thị xã Gò Công, vượt thêm 16 km nữa để tới Tân Thành. Đây là đoạn đường hấp dẫn đối với bất cứ du khách nào.

Đầu tiên là bạn sẽ có dịp ghé thăm Khu di tích Lăng Hoàng Gia rộng khoảng 4.000 m2, với nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Nguyễn Thị Hằng (Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức). Kế đó là xã Hòa Nghị. Ngoài cây dầu cổ thụ sống mấy trăm năm, nơi đây còn được mệnh danh là “quê hương trái sơ ri”.

< Chú Tấn: Bãi nuôi nghêu kéo dài tới xa tuốt ngoài kia hàng cây số.

Tiếp theo, bạn đến thăm đền thờ Trương Định ở xã Tân Hòa - nơi khởi binh chống Pháp của người anh hùng dân tộc lừng lẫy với địa danh “Đám lá tối trời” mà thực dân và tay sai khi nghe tới đều rụng rời tay chân, khiếp đảm tinh thần. Thưởng thức các món đặc sản Tân Hòa như bánh giá, mắm còng và mắm tôm chua với rượu sơ ri xong, bạn sẽ rong xe tới biển Tân Thành.

Biển Tân Thành dài khoảng 7 km. Riêng Khu du lịch biển Tân Thành đã được làm bờ kè dài gần 300 m. Bờ kè tuy đẹp, giúp ngăn chặn những cơn sóng dữ mùa gió chướng làm sạt lở bờ nhưng lại khiến nó trở thành bờ biển “chết”, vì chẳng mấy du khách đoái hoài tới chuyện đùa giỡn thỏa thuê với con sóng từ đại dương ùa vào. Tại đây, nhìn ra xa thấy những chiếc chòi giữ nghêu cao lênh khênh trên sóng biển. Nhưng, điều hấp dẫn du khách đến với Tân Thành chính là đặc sản biển.

Korean Air! - Theo Vĩnh Long Online, báo Hậu Giang, internet