Hiển thị các bài đăng có nhãn Thắng cảnh tâm linh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thắng cảnh tâm linh. Hiển thị tất cả bài đăng
Được xây dựng vào năm 1802, chùa Sắc tứ Tam Bảo (P.Vĩnh Bảo, TP.Rạch Giá, Kiên Giang) là nơi gắn liền với cuộc đời tu hành của hòa thượng Thích Trí Thiền. Đây còn là trụ sở, tòa soạn Tạp chí Tiến hóa của Hội Phật học kiêm tế vào năm 1936.

Lúc đầu được dựng bằng gỗ, lợp lá. Năm 1917, Hòa thượng Trí Thiền đã trùng kiến ngôi chùa. Ngôi chánh điện của chùa kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên,ở mặt tiền bên trên hàng hiên là ngọn bảo tháp ba tầng tượng trưng Cửu phẩm Liên Hoa. Chánh điện có chiều ngang 14,50m, chiều dọc 22m. Năm bao lam ở các bàn thờ được chạm trỗ công phu, thếp vàng rực rỡ. Các tượng Phật Di Đà, Thích Ca và các vị Bồ Tát được bài trí trang nghiêm. Đông lang được dùng làm phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng trụ trì. Tây lang và giảng đường của chùa được dùng làm Tuệ Tĩnh đường - nơi chữa bệnh miễn phí cho đồng bào.

Chúa Nguyễn ở Phú Quốc

Sách Đại Nam thực lục chép rằng, tháng 7 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ nghe tin Nguyễn Phúc Ánh đang ở đảo Côn Lôn, bèn sai phò mã Trương Văn Đa đem thủy binh đến vây ba vòng. Bỗng mưa to gió lớn nổi lên, bốn bề mây mù giăng kín. Trận bão đã nhấn chìm đội thủy binh của Trương Văn Đa. Thuyền của chúa Nguyễn nhân đó vượt vòng vây, đến hòn Cổ Cốt, rồi lại trở về đảo Phú Quốc. “Ở đây quân lương thiếu thốn, binh sĩ phải hái cỏ tìm củ mà ăn. Bấy giờ có người đàn bà tên là Thị Uyển chở một thuyền gạo đến dâng. Thuyền vua gặp gió, buồm và cột buồm bị hỏng, lại có thuyền buôn đem lá buồm đến dâng”.

Thị Uyển mà Đại Nam thực lục nói đến chính là bà Dương Thị Oán, người Rạch Giá. Nhà văn Sơn Nam trong quyển hồi ký của mình thì cho rằng bà Oán đã dâng cho Nguyễn Phúc Ánh những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo không đứt khi vượt biển, thay cho loại quai chèo thắt bằng gai. Về sau, bà Oán cất một ngôi chùa ở Rạch Giá để tu hành. Khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, có nhã ý trả ơn nhưng bà từ chối. Nhớ công lao xưa, vua đã sắc tứ ngôi chùa do bà lập.

Vào giai đoạn chúa Nguyễn Phúc Ánh ở đảo Côn Lôn cũng có nhiều huyền thoại được người đời sau thêu dệt. Năm 1964, trên Tạp chí Phổ Thông của Nguyễn Vĩ có đăng bài viết về bà Phi Yến của tác giả Sơn Vương. Theo Sơn Vương, khi chúa Nguyễn Phúc Ánh bị Tây Sơn truy đuổi ra Côn Đảo có đem theo bà thứ phi tên là Phi Yến, tên tục là Răm. Bà thứ phi có một con trai với chúa Nguyễn là hoàng tử Cải. Trong lúc khó khăn, chúa Nguyễn bàn với quần thần định đưa hoàng tử Cải sang Pháp cầu viện nhưng bị bà Phi Yến ngăn cản. Tức giận, chúa định đưa ra chém nhưng quần thần can gián kịp thời. Song chúa Nguyễn vẫn nghi ngờ bà thông đồng với Tây Sơn nên cho nhốt vào hang đá.

Hoàng tử Cải biết mẹ bị oan ức nên khóc lóc, chúa tức giận bắt quăng xuống biển. Dân làng Cỏ Ống vớt xác lên chôn cất và lập miếu thờ. Rồi khi quân Tây Sơn tấn công, chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy về Phú Quốc. Bà Phi Yến thoát ra được. Dân làng bèn làm cho một ngôi nhà gần mả Cậu. Giai thoại này giải thích câu ca dao: “Gió đưa cây Cải về trời/Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay”.

Theo Đại Nam thực lục thì chúa Nguyễn Ánh có bị Tây Sơn vây ở đảo Côn Lôn như đã nêu trên, còn chuyện bà Phi Yến có lẽ là câu chuyện dân gian hư cấu.

Các nhà sư đi tù...

Lịch sử phát triển của chùa Sắc tứ Tam Bảo ở Rạch Giá gắn liền với sự nghiệp hoằng pháp của hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng. Vì vậy chùa còn có tên gọi là chùa Ông Đồng. Ông sinh năm 1882 tại làng Vĩnh Thanh Vân,

Rạch Giá, xuất gia tu học từ năm 30 tuổi. Năm 1913, ông được phật tử địa phương thỉnh về trụ trì ngôi chùa sắc tứ do bà Dương Thị Oán lập. Năm 1915 ông vận động phật tử đóng góp, xây dựng lại ngôi chùa và đổi tên là chùa Tam Bảo. Ông là người có công trùng tu lại ngôi chùa với lối kiến trúc độc đáo của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Nhiều tượng Phật bằng gỗ quý được lưu giữ nguyên trạng đến ngày nay.

Ngày 26.8.1931, Thống đốc Nam kỳ Kratreimer cho phép thành lập Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học. Thời bấy giờ, thực dân Pháp hạn chế việc thành lập hội đoàn và xuất bản báo chí, nên các sư phải nhờ Trần Nguyên Chấn - ở dinh Đốc lý cùng đứng đơn xin phép. Hoạt động được hai năm, một số cao tăng trong hội cảm thấy có điều bất thường, xin rút ra khỏi hội. Rời Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học, sư Thiện Chiếu tìm gặp hòa thượng Trí Thiền vận động thành lập Hội Phật học kiêm tế, xuất bản tờ Tiến hóa, thế là chùa Tam Bảo được sử dụng làm trụ sở hội và tòa soạn báo. Lúc này hòa thượng Trí Thiền giữ chức Chánh tổng lý của Phật học kiêm tế, chủ trương mở viện mồ côi ngay tại chùa, lớp học bình dân, phòng thuốc miễn phí, cứu trợ nạn nhân thiên tai...

Trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ cuối năm 1940, Liên tỉnh ủy Hậu Giang đã chọn chùa Tam Bảo làm nơi liên lạc và tàng trữ vũ khí sản xuất tại vùng U Minh chuyển ra, để phân phối đi các nơi. Lúc này, cách mạng đã phân công Trần Văn Thâu (pháp danh Thích Thiện Ân) đến ở chùa với hòa thượng Trí Thiền để hoạt động.

Tháng 6.1941, do có chỉ điểm, mật thám Pháp dẫn theo một số người bị bắt như Phan Văn Bảy, Lưu Nhơn Sâm tới chùa lục soát và thu được 59 trái lựu đạn cùng một số tài liệu. Chúng đem số lựu đạn thu được để trên một chiếc bàn, đồng thời dẫn hai nhà sư cùng các ông Phan Văn Bảy, Lưu Nhơn Sâm... đều bị trói, đứng gần bàn để thẩm vấn, tra khảo. Trong lúc tra khảo thì một quả lựu đạn phát nổ làm bị thương nhiều người. Báo cáo chính trị tháng 6.1941 của Mật thám Nam kỳ (hồ sơ B42-v/1443) miêu tả sự việc như sau: “Trong khi tra khảo nơi cất giấu bom và truyền đơn, y (tức sư Thiện Ân) đã giả vờ ngất và trong khi mọi người săn sóc, y đã nhảy về phía chiếc bàn trên có xếp những trái bom và không thể dùng các cánh tay bị trói, y đã tìm cách dùng người hất đổ chiếc bàn. Đương sự làm rơi một trái bom, trái bom phát nổ và các mảnh của nó đã làm bị thương nặng một viên cảnh sát...”.

Sau vụ này, chính quyền thực dân Pháp đã đưa ra tòa và kết án tử hình các ông Phan Văn Bảy, Lưu Nhơn Sâm và sư Thích Thiện Ân. Hòa thượng Thích Trí Thiền bị đày đi Côn Đảo. Năm 1943, hòa thượng đã hy sinh tại nhà tù Côn Đảo. Chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới và không có sư trụ trì cho đến năm 1956. Năm 1988, chùa đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Theo báo Thanh Niên, NTO, ảnh internet

Được xây dựng vào năm 1802, chùa Sắc tứ Tam Bảo (P.Vĩnh Bảo, TP.Rạch Giá, Kiên Giang) là nơi gắn liền với cuộc đời tu hành của hòa thượng Thích Trí Thiền. Đây còn là trụ sở, tòa soạn Tạp chí Tiến hóa của Hội Phật học kiêm tế vào năm 1936.

Lúc đầu được dựng bằng gỗ, lợp lá. Năm 1917, Hòa thượng Trí Thiền đã trùng kiến ngôi chùa. Ngôi chánh điện của chùa kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên,ở mặt tiền bên trên hàng hiên là ngọn bảo tháp ba tầng tượng trưng Cửu phẩm Liên Hoa. Chánh điện có chiều ngang 14,50m, chiều dọc 22m. Năm bao lam ở các bàn thờ được chạm trỗ công phu, thếp vàng rực rỡ. Các tượng Phật Di Đà, Thích Ca và các vị Bồ Tát được bài trí trang nghiêm. Đông lang được dùng làm phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng trụ trì. Tây lang và giảng đường của chùa được dùng làm Tuệ Tĩnh đường - nơi chữa bệnh miễn phí cho đồng bào.

Chúa Nguyễn ở Phú Quốc

Sách Đại Nam thực lục chép rằng, tháng 7 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ nghe tin Nguyễn Phúc Ánh đang ở đảo Côn Lôn, bèn sai phò mã Trương Văn Đa đem thủy binh đến vây ba vòng. Bỗng mưa to gió lớn nổi lên, bốn bề mây mù giăng kín. Trận bão đã nhấn chìm đội thủy binh của Trương Văn Đa. Thuyền của chúa Nguyễn nhân đó vượt vòng vây, đến hòn Cổ Cốt, rồi lại trở về đảo Phú Quốc. “Ở đây quân lương thiếu thốn, binh sĩ phải hái cỏ tìm củ mà ăn. Bấy giờ có người đàn bà tên là Thị Uyển chở một thuyền gạo đến dâng. Thuyền vua gặp gió, buồm và cột buồm bị hỏng, lại có thuyền buôn đem lá buồm đến dâng”.

Thị Uyển mà Đại Nam thực lục nói đến chính là bà Dương Thị Oán, người Rạch Giá. Nhà văn Sơn Nam trong quyển hồi ký của mình thì cho rằng bà Oán đã dâng cho Nguyễn Phúc Ánh những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo không đứt khi vượt biển, thay cho loại quai chèo thắt bằng gai. Về sau, bà Oán cất một ngôi chùa ở Rạch Giá để tu hành. Khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, có nhã ý trả ơn nhưng bà từ chối. Nhớ công lao xưa, vua đã sắc tứ ngôi chùa do bà lập.

Vào giai đoạn chúa Nguyễn Phúc Ánh ở đảo Côn Lôn cũng có nhiều huyền thoại được người đời sau thêu dệt. Năm 1964, trên Tạp chí Phổ Thông của Nguyễn Vĩ có đăng bài viết về bà Phi Yến của tác giả Sơn Vương. Theo Sơn Vương, khi chúa Nguyễn Phúc Ánh bị Tây Sơn truy đuổi ra Côn Đảo có đem theo bà thứ phi tên là Phi Yến, tên tục là Răm. Bà thứ phi có một con trai với chúa Nguyễn là hoàng tử Cải. Trong lúc khó khăn, chúa Nguyễn bàn với quần thần định đưa hoàng tử Cải sang Pháp cầu viện nhưng bị bà Phi Yến ngăn cản. Tức giận, chúa định đưa ra chém nhưng quần thần can gián kịp thời. Song chúa Nguyễn vẫn nghi ngờ bà thông đồng với Tây Sơn nên cho nhốt vào hang đá.

Hoàng tử Cải biết mẹ bị oan ức nên khóc lóc, chúa tức giận bắt quăng xuống biển. Dân làng Cỏ Ống vớt xác lên chôn cất và lập miếu thờ. Rồi khi quân Tây Sơn tấn công, chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy về Phú Quốc. Bà Phi Yến thoát ra được. Dân làng bèn làm cho một ngôi nhà gần mả Cậu. Giai thoại này giải thích câu ca dao: “Gió đưa cây Cải về trời/Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay”.

Theo Đại Nam thực lục thì chúa Nguyễn Ánh có bị Tây Sơn vây ở đảo Côn Lôn như đã nêu trên, còn chuyện bà Phi Yến có lẽ là câu chuyện dân gian hư cấu.

Các nhà sư đi tù...

Lịch sử phát triển của chùa Sắc tứ Tam Bảo ở Rạch Giá gắn liền với sự nghiệp hoằng pháp của hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng. Vì vậy chùa còn có tên gọi là chùa Ông Đồng. Ông sinh năm 1882 tại làng Vĩnh Thanh Vân,

Rạch Giá, xuất gia tu học từ năm 30 tuổi. Năm 1913, ông được phật tử địa phương thỉnh về trụ trì ngôi chùa sắc tứ do bà Dương Thị Oán lập. Năm 1915 ông vận động phật tử đóng góp, xây dựng lại ngôi chùa và đổi tên là chùa Tam Bảo. Ông là người có công trùng tu lại ngôi chùa với lối kiến trúc độc đáo của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Nhiều tượng Phật bằng gỗ quý được lưu giữ nguyên trạng đến ngày nay.

Ngày 26.8.1931, Thống đốc Nam kỳ Kratreimer cho phép thành lập Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học. Thời bấy giờ, thực dân Pháp hạn chế việc thành lập hội đoàn và xuất bản báo chí, nên các sư phải nhờ Trần Nguyên Chấn - ở dinh Đốc lý cùng đứng đơn xin phép. Hoạt động được hai năm, một số cao tăng trong hội cảm thấy có điều bất thường, xin rút ra khỏi hội. Rời Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học, sư Thiện Chiếu tìm gặp hòa thượng Trí Thiền vận động thành lập Hội Phật học kiêm tế, xuất bản tờ Tiến hóa, thế là chùa Tam Bảo được sử dụng làm trụ sở hội và tòa soạn báo. Lúc này hòa thượng Trí Thiền giữ chức Chánh tổng lý của Phật học kiêm tế, chủ trương mở viện mồ côi ngay tại chùa, lớp học bình dân, phòng thuốc miễn phí, cứu trợ nạn nhân thiên tai...

Trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ cuối năm 1940, Liên tỉnh ủy Hậu Giang đã chọn chùa Tam Bảo làm nơi liên lạc và tàng trữ vũ khí sản xuất tại vùng U Minh chuyển ra, để phân phối đi các nơi. Lúc này, cách mạng đã phân công Trần Văn Thâu (pháp danh Thích Thiện Ân) đến ở chùa với hòa thượng Trí Thiền để hoạt động.

Tháng 6.1941, do có chỉ điểm, mật thám Pháp dẫn theo một số người bị bắt như Phan Văn Bảy, Lưu Nhơn Sâm tới chùa lục soát và thu được 59 trái lựu đạn cùng một số tài liệu. Chúng đem số lựu đạn thu được để trên một chiếc bàn, đồng thời dẫn hai nhà sư cùng các ông Phan Văn Bảy, Lưu Nhơn Sâm... đều bị trói, đứng gần bàn để thẩm vấn, tra khảo. Trong lúc tra khảo thì một quả lựu đạn phát nổ làm bị thương nhiều người. Báo cáo chính trị tháng 6.1941 của Mật thám Nam kỳ (hồ sơ B42-v/1443) miêu tả sự việc như sau: “Trong khi tra khảo nơi cất giấu bom và truyền đơn, y (tức sư Thiện Ân) đã giả vờ ngất và trong khi mọi người săn sóc, y đã nhảy về phía chiếc bàn trên có xếp những trái bom và không thể dùng các cánh tay bị trói, y đã tìm cách dùng người hất đổ chiếc bàn. Đương sự làm rơi một trái bom, trái bom phát nổ và các mảnh của nó đã làm bị thương nặng một viên cảnh sát...”.

Sau vụ này, chính quyền thực dân Pháp đã đưa ra tòa và kết án tử hình các ông Phan Văn Bảy, Lưu Nhơn Sâm và sư Thích Thiện Ân. Hòa thượng Thích Trí Thiền bị đày đi Côn Đảo. Năm 1943, hòa thượng đã hy sinh tại nhà tù Côn Đảo. Chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới và không có sư trụ trì cho đến năm 1956. Năm 1988, chùa đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Theo báo Thanh Niên, NTO, ảnh internet

triền đê bên kia sông Đuống ấy còn có làng tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn nét tươi trong in trên giấy điệp. Nhưng có mấy ai biết rằng nơi đây thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có một khu lăng mộ của Kinh Dương Vương.

< Cổng làng Á Lữ.

Từ cảm hứng thi ca mà cố nhà thơ Hoàng Cầm đã khắc họa, chúng tôi có chuyến hành trình mùa xuân xuôi theo dòng sông Đuống hiền hòa tìm về mảnh đất Kinh Bắc. Có thể nói bên kia sông Đuống là một miền văn hóa lâu đời với mái chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp non nghiên, với Luy Lâu nơi khởi thủy của Phật giáo khi truyền vào Việt Nam.

< Lăng mộ Kinh Dương Vương.

Ở triền đê bên kia sông Đuống ấy còn có làng tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn nét tươi trong in trên giấy điệp. Nhưng có mấy ai biết rằng nơi đây thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có một khu lăng mộ của Kinh Dương Vương.

Nếu ai đó đã từng một lần xuôi dòng sông Đuống theo triền đê văn hóa và chú ý trên đoạn đê từ làng tranh Đông Hồ về chùa Bút Tháp sẽ bắt gặp tấm biển bê tông cỡ lớn có ghi: "Di tích Lịch sử Lăng Kinh Dương Vương-Thủy tổ Việt Nam". Hẳn rằng nếu không có mục đích từ trước hoặc không thích quan sát hai bên đường thì khó có ai biết mình vừa đi qua lăng mộ, nơi yên nghỉ ngàn thu của con người được coi là thủy tổ khai thiên lập quốc của Việt Nam.

< Biển chỉ dẫn khu lăng mộ Kinh Dương Vương trên triền đê sông Đuống.

Men theo con đường bê tông từ đê sông Đuống rẽ xuống theo biển chỉ dẫn, chúng tôi bắt gặp một tấm bia cổ đã bị vỡ một phần được đặt trên bệ bê tông . Nơi miền Thủy tổ ở đây quanh năm u tịch, vắng lặng đến khác thường. Cả một khu vườn cây xà cừ cổ thụ chỉ có tiếng gió rít qua từng khe lá lạnh tê tái cõi lòng. Nhưng câu xà cừ cổ thụ ở đây theo chúng tôi được biết đã có tuổi đời hàng trăm năm, có nhiều gốc cây hai, ba người vòng tay ôm cũng không xuể.

Tìm kiếm một bóng người cùng chung mục đích với mình cũng chẳng thấy đâu, chúng tôi phải đợi mãi mới bắt gặp một ông lão lững thững từ phía chân đê đi lại.

< Đền Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ.

Ông lão ấy tự xưng là người trông coi khu lăng mộ vị vua Thủy tổ Việt Nam: "Tôi là Vương Hữu Thông, đã trông coi khu lăng mộ Kinh Dương Vương từ nhiều năm rồi". Sau khi biết chúng tôi là người từ phương xa đến thăm quan và muốn hiểu biết chút lịch sử về nơi này, ông lão đã mời khách vào một căn nhà nhỏ trước khu lăng mộ và bắt đầu kể chuyện. Theo ông Thông, Kinh Dương Vương được người đời truyền kể lại rằng thuộc bộ lạc Dâu, cư trú tại vùng phía nam sông Đuống, thuộc tỉnh huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

Không chỉ Kinh Dương Vương mà người con của ông là Lạc Long Quân cũng từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này. Ông Thông nhấn mạnh: "chính khu lăng mộ của Kinh Dương Vương hiện ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh quê hương chúng tôi vẫn còn dấu tích đến ngày nay là một bằng cứ, căn cứ để khẳng định gốc tích của Kinh Dương Vương".

< Đền Kinh Dương Vương.

Khu di tích lăng mộ Kinh Dương Vương đã được Bộ Văn hóa Thể thao (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích cấp quốc gia từ năm 2008. Hiện nay, khu lăng mộ Kinh Dương Vương nằm ở ngoài đê sông Đuống trên một nền diện tích khá rộng, khoảng 1 ha.

Theo thông tin do ông Thông cung cấp từ tư liệu hiện đang lưu giữ ở đây thì vào năm 1949, khu lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương đã bị thực dân Pháp tàn phá gần như toàn bộ, chỉ còn vài tấm bia đá, cột đá là còn hình hài. Đến năm 1971, chính quyền địa phương đã cho xây dựng lại trên một diện tích khá khiêm tốn.

< Có lẽ chỉ vào ngày lễ hội 18-1 âm hàng năm khu lăng mộ Kinh Dương Vương mới đông đúc, náo nhiệt.

Phải đến năm 2000, tỉnh Bắc Ninh mới cho đầu tư xây dựng lại khu di tích lăng mộ, đền thờ Kinh Dương Vương như hình hài mà mọi người thấy hiện nay. Đền thờ hiện lưu giữ nhiều đạo sắc phong có niên đại từ năm 1810 đến 1924 và một bức đại tự có chữ Đại Nam tổ miếu. Tuy nhiên, theo ông Thông, quy mô và mức độ chuẩn xác trong các công trình phục dựng lại lăng Kinh Dương Vương so với trước đây vẫn còn là một điều đáng phải bàn.

Sau 12 năm kể từ ngày được tỉnh đầu từ, khu lăng mộ này vẫn chưa có gì thay đổi, quá khiêm tôn so với một người được coi là Đức Thủy tổ Việt Nam. Mặc dù có nhiều đoàn du khách đến thăm hơn xưa, nhưng thực sự lăng mộ của đấng Thủy tổ Việt Nam vẫn gần như bị chìm vào quên lãng trong tâm thức người Việt.

< Chùa thờ Phật trong khuôn viên đền Kinh Dương Vương.

Một nhà thơ xứ Kinh Bắc đã từng có những câu thơ rất hay về khu lăng Kinh Dương Vương như sau:

Lăng Kinh Dương Vương nhỏ nhoi bình dị,
Địa chỉ thiêng tồn tại muôn đời.
Cỏ vẫn non tươi thời tiền sử, mơn mởn xoè chín hướng mười phương,
Người khai mở giang sơn bờ cõi nằm yên trong tâm thức cháu con.
Đâu phải một đêm mà xong sự nghiệp,
Đâu phải một ngày có cả giang san.

Những câu thơ của nhà thơ Kinh Bắc đã nói lên tất cả ý nghĩa lơn lao của một con người xuất hiện trong truyền thuyết mà đã được dân tộc lịch sử hóa và tôn thờ. Ở miền đất Thủy tổ Việt Nam hiện nay tại khu đền thờ Kinh Dương Vương còn có ban thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Tất cả họ đều được phong là Thủy tổ, Quốc tổ và Quốc mẫu và đều chiếm một vị trí thành kính, ngưỡng vọng trong tâm thức người Việt Nam. Cũng trong khu đền thờ Kinh Dương Vương còn giữ rất nhiều đạo sắc phong, thần phả, đồ thờ tự, câu đối, bia ký có giá trị đã chứng tỏ việc thờ cúng các vị Thủy tổ dân tộc ở Á Lữ có từ rất xa xưa.

Qua đó, khẳng định vị trí quan trọng của khu di tích trong đời sống tinh thần của người dân địa phương cũng như sự tôn thờ, ngưỡng vọng của các triều đại lịch sử đối với tiên tổ.

Ông Thông cho biết: "Những bức đại tự, câu đối, sắc phong hiện còn lưu giữ tại đây cho thấy Lăng Kinh Dương Vương thời xưa được xếp vào hàng miếu thờ đế vương các triều đại, mỗi lần tổ chức quốc lễ đã ban sắc, gia phong mỹ tự, sai quan đến tế lễ trang nghiêm, trọng thể, đồng thời cho tu bổ, tôn tạo và lập bia...".
Lăng Kinh Dương Vương Đức Thủy tổ nước Việt là nơi cất giữ, cố kết tâm hồn Việt thành dân tộc, thành quốc gia từ bao đời nay. Mỗi lần đến đây, lịch sử mấy ngàn năm như lời nhắc mỗi người dấu thiêng thời mở nước.

Truyền thống và dấu tích cội nguồn dân tộc với hình tượng, câu chuyện về Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương luôn được cái bậc cao niên trong làng truyền kể lại cho lũ trẻ. Chính vì thế ước vọng và niềm tự hào cội nguồn đã ăn sâu, bám rễ vào lớp lớp người ở nơi đây. Ba năm trở lại đây, lễ hội tưởng nhớ Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương được chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức khá long trọng. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày ( 6, 17, 18 tháng Giêng Âm lịch).

Du khách thập phương sẽ được chứng kiến lễ dâng hương tại đền thờ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ, nghi thức rước kiệu từ Đền ra Lăng Kinh Dương Vương và từ lăng trở lại Đền theo nghi lễ truyền thống. Trong đoàn rước có các hoạt động như: múa lân, múa rồng, điểm nhấn là rước kiệu Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ, tổ chức tế lễ theo nghi thức cung đình...

Tuy nhiên so với Quốc giỗ diễn ra hằng năm ở Đền Hùng, Phú Thọ thì lễ tưởng nhớ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ ở Thuận Thành, Bắc Ninh thật quá nhỏ bé và chưa xứng tầm.

Đặc biệt là thực trạng hiu quạnh, quên lãng ở khu lăng mộ Kinh Dương Vương vào những ngày không lễ hội. Chúng tôi thiết nghĩ những mong ước của ông quản lăng Thông cũng là trăn trở của bao người con dân Việt.

Nếu Kinh Dương Vương đã được xưng tôn là Đức Thủy tổ hay Vương Thủy tổ của Việt Nam thì khu lăng mộ, đền thờ cần được quan tâm đầu tư hơn nữa. Đặc biệt là việc giáo dục truyền thống, ý thức cội nguồn cho thế thệ trẻ cả nước, chứ không chỉ bó hẹp việc truyền kể cho dân làng Á Lữ như hiện nay...

triền đê bên kia sông Đuống ấy còn có làng tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn nét tươi trong in trên giấy điệp. Nhưng có mấy ai biết rằng nơi đây thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có một khu lăng mộ của Kinh Dương Vương.

< Cổng làng Á Lữ.

Từ cảm hứng thi ca mà cố nhà thơ Hoàng Cầm đã khắc họa, chúng tôi có chuyến hành trình mùa xuân xuôi theo dòng sông Đuống hiền hòa tìm về mảnh đất Kinh Bắc. Có thể nói bên kia sông Đuống là một miền văn hóa lâu đời với mái chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp non nghiên, với Luy Lâu nơi khởi thủy của Phật giáo khi truyền vào Việt Nam.

< Lăng mộ Kinh Dương Vương.

Ở triền đê bên kia sông Đuống ấy còn có làng tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn nét tươi trong in trên giấy điệp. Nhưng có mấy ai biết rằng nơi đây thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có một khu lăng mộ của Kinh Dương Vương.

Nếu ai đó đã từng một lần xuôi dòng sông Đuống theo triền đê văn hóa và chú ý trên đoạn đê từ làng tranh Đông Hồ về chùa Bút Tháp sẽ bắt gặp tấm biển bê tông cỡ lớn có ghi: "Di tích Lịch sử Lăng Kinh Dương Vương-Thủy tổ Việt Nam". Hẳn rằng nếu không có mục đích từ trước hoặc không thích quan sát hai bên đường thì khó có ai biết mình vừa đi qua lăng mộ, nơi yên nghỉ ngàn thu của con người được coi là thủy tổ khai thiên lập quốc của Việt Nam.

< Biển chỉ dẫn khu lăng mộ Kinh Dương Vương trên triền đê sông Đuống.

Men theo con đường bê tông từ đê sông Đuống rẽ xuống theo biển chỉ dẫn, chúng tôi bắt gặp một tấm bia cổ đã bị vỡ một phần được đặt trên bệ bê tông . Nơi miền Thủy tổ ở đây quanh năm u tịch, vắng lặng đến khác thường. Cả một khu vườn cây xà cừ cổ thụ chỉ có tiếng gió rít qua từng khe lá lạnh tê tái cõi lòng. Nhưng câu xà cừ cổ thụ ở đây theo chúng tôi được biết đã có tuổi đời hàng trăm năm, có nhiều gốc cây hai, ba người vòng tay ôm cũng không xuể.

Tìm kiếm một bóng người cùng chung mục đích với mình cũng chẳng thấy đâu, chúng tôi phải đợi mãi mới bắt gặp một ông lão lững thững từ phía chân đê đi lại.

< Đền Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ.

Ông lão ấy tự xưng là người trông coi khu lăng mộ vị vua Thủy tổ Việt Nam: "Tôi là Vương Hữu Thông, đã trông coi khu lăng mộ Kinh Dương Vương từ nhiều năm rồi". Sau khi biết chúng tôi là người từ phương xa đến thăm quan và muốn hiểu biết chút lịch sử về nơi này, ông lão đã mời khách vào một căn nhà nhỏ trước khu lăng mộ và bắt đầu kể chuyện. Theo ông Thông, Kinh Dương Vương được người đời truyền kể lại rằng thuộc bộ lạc Dâu, cư trú tại vùng phía nam sông Đuống, thuộc tỉnh huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

Không chỉ Kinh Dương Vương mà người con của ông là Lạc Long Quân cũng từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này. Ông Thông nhấn mạnh: "chính khu lăng mộ của Kinh Dương Vương hiện ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh quê hương chúng tôi vẫn còn dấu tích đến ngày nay là một bằng cứ, căn cứ để khẳng định gốc tích của Kinh Dương Vương".

< Đền Kinh Dương Vương.

Khu di tích lăng mộ Kinh Dương Vương đã được Bộ Văn hóa Thể thao (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích cấp quốc gia từ năm 2008. Hiện nay, khu lăng mộ Kinh Dương Vương nằm ở ngoài đê sông Đuống trên một nền diện tích khá rộng, khoảng 1 ha.

Theo thông tin do ông Thông cung cấp từ tư liệu hiện đang lưu giữ ở đây thì vào năm 1949, khu lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương đã bị thực dân Pháp tàn phá gần như toàn bộ, chỉ còn vài tấm bia đá, cột đá là còn hình hài. Đến năm 1971, chính quyền địa phương đã cho xây dựng lại trên một diện tích khá khiêm tốn.

< Có lẽ chỉ vào ngày lễ hội 18-1 âm hàng năm khu lăng mộ Kinh Dương Vương mới đông đúc, náo nhiệt.

Phải đến năm 2000, tỉnh Bắc Ninh mới cho đầu tư xây dựng lại khu di tích lăng mộ, đền thờ Kinh Dương Vương như hình hài mà mọi người thấy hiện nay. Đền thờ hiện lưu giữ nhiều đạo sắc phong có niên đại từ năm 1810 đến 1924 và một bức đại tự có chữ Đại Nam tổ miếu. Tuy nhiên, theo ông Thông, quy mô và mức độ chuẩn xác trong các công trình phục dựng lại lăng Kinh Dương Vương so với trước đây vẫn còn là một điều đáng phải bàn.

Sau 12 năm kể từ ngày được tỉnh đầu từ, khu lăng mộ này vẫn chưa có gì thay đổi, quá khiêm tôn so với một người được coi là Đức Thủy tổ Việt Nam. Mặc dù có nhiều đoàn du khách đến thăm hơn xưa, nhưng thực sự lăng mộ của đấng Thủy tổ Việt Nam vẫn gần như bị chìm vào quên lãng trong tâm thức người Việt.

< Chùa thờ Phật trong khuôn viên đền Kinh Dương Vương.

Một nhà thơ xứ Kinh Bắc đã từng có những câu thơ rất hay về khu lăng Kinh Dương Vương như sau:

Lăng Kinh Dương Vương nhỏ nhoi bình dị,
Địa chỉ thiêng tồn tại muôn đời.
Cỏ vẫn non tươi thời tiền sử, mơn mởn xoè chín hướng mười phương,
Người khai mở giang sơn bờ cõi nằm yên trong tâm thức cháu con.
Đâu phải một đêm mà xong sự nghiệp,
Đâu phải một ngày có cả giang san.

Những câu thơ của nhà thơ Kinh Bắc đã nói lên tất cả ý nghĩa lơn lao của một con người xuất hiện trong truyền thuyết mà đã được dân tộc lịch sử hóa và tôn thờ. Ở miền đất Thủy tổ Việt Nam hiện nay tại khu đền thờ Kinh Dương Vương còn có ban thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Tất cả họ đều được phong là Thủy tổ, Quốc tổ và Quốc mẫu và đều chiếm một vị trí thành kính, ngưỡng vọng trong tâm thức người Việt Nam. Cũng trong khu đền thờ Kinh Dương Vương còn giữ rất nhiều đạo sắc phong, thần phả, đồ thờ tự, câu đối, bia ký có giá trị đã chứng tỏ việc thờ cúng các vị Thủy tổ dân tộc ở Á Lữ có từ rất xa xưa.

Qua đó, khẳng định vị trí quan trọng của khu di tích trong đời sống tinh thần của người dân địa phương cũng như sự tôn thờ, ngưỡng vọng của các triều đại lịch sử đối với tiên tổ.

Ông Thông cho biết: "Những bức đại tự, câu đối, sắc phong hiện còn lưu giữ tại đây cho thấy Lăng Kinh Dương Vương thời xưa được xếp vào hàng miếu thờ đế vương các triều đại, mỗi lần tổ chức quốc lễ đã ban sắc, gia phong mỹ tự, sai quan đến tế lễ trang nghiêm, trọng thể, đồng thời cho tu bổ, tôn tạo và lập bia...".
Lăng Kinh Dương Vương Đức Thủy tổ nước Việt là nơi cất giữ, cố kết tâm hồn Việt thành dân tộc, thành quốc gia từ bao đời nay. Mỗi lần đến đây, lịch sử mấy ngàn năm như lời nhắc mỗi người dấu thiêng thời mở nước.

Truyền thống và dấu tích cội nguồn dân tộc với hình tượng, câu chuyện về Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương luôn được cái bậc cao niên trong làng truyền kể lại cho lũ trẻ. Chính vì thế ước vọng và niềm tự hào cội nguồn đã ăn sâu, bám rễ vào lớp lớp người ở nơi đây. Ba năm trở lại đây, lễ hội tưởng nhớ Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương được chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức khá long trọng. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày ( 6, 17, 18 tháng Giêng Âm lịch).

Du khách thập phương sẽ được chứng kiến lễ dâng hương tại đền thờ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ, nghi thức rước kiệu từ Đền ra Lăng Kinh Dương Vương và từ lăng trở lại Đền theo nghi lễ truyền thống. Trong đoàn rước có các hoạt động như: múa lân, múa rồng, điểm nhấn là rước kiệu Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ, tổ chức tế lễ theo nghi thức cung đình...

Tuy nhiên so với Quốc giỗ diễn ra hằng năm ở Đền Hùng, Phú Thọ thì lễ tưởng nhớ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ ở Thuận Thành, Bắc Ninh thật quá nhỏ bé và chưa xứng tầm.

Đặc biệt là thực trạng hiu quạnh, quên lãng ở khu lăng mộ Kinh Dương Vương vào những ngày không lễ hội. Chúng tôi thiết nghĩ những mong ước của ông quản lăng Thông cũng là trăn trở của bao người con dân Việt.

Nếu Kinh Dương Vương đã được xưng tôn là Đức Thủy tổ hay Vương Thủy tổ của Việt Nam thì khu lăng mộ, đền thờ cần được quan tâm đầu tư hơn nữa. Đặc biệt là việc giáo dục truyền thống, ý thức cội nguồn cho thế thệ trẻ cả nước, chứ không chỉ bó hẹp việc truyền kể cho dân làng Á Lữ như hiện nay...

Niết Bàn Tịnh Xá (còn gọi là chùa Phật Nằm) tọa lạc tại số 66/7 đường Hạ Long, phường 1, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Việt Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp ở thành phố Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc và tác phẩm điêu khắc đặc sắc.

Nằm ở trung tâm Bãi Dứa, Niết Bàn Tịnh xá được Hòa thượng Thích Thiện Huê tổ chức xây dựng từ năm 1969 đến năm 1974 mới hoàn thành trên triền núi Nhỏ, trước kia có tên là núi Tao Phùng, hướng mặt ra biển. Đây là một công trình đồ sộ gồm nhiều cấp, nhiều dãy nhà trên diện tích gần 10.000m².

Điểm nhấn kiến trúc khác là một cột cờ cao 21m, được làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam ở sân trước chùa. Lối lên rộng rãi, dọc theo triền dốc. Cổng chính nổi bật với bốn chữ Hán: Niết Bàn Tịnh Xá. Hai trụ cổng được khắc đôi câu đối đầy ý nghĩa:

Niết Bàn thị hiện, độ chúng niệm phật tâm thôn, chân giải thoát.
Tịnh xá quang minh, vô lậu giác ngộ chánh pháp, hiển như lai.

Phía trong là hai pho tượng ông Thiện và ông Ác cao lớn đứng trông cửa. Bên phải cổng có một bức phù điêu, rộng 2m, cao 4m chạm hình long mã, đầu rồng, chân ngựa bước trên sóng nước, phía trên hạc bay múa trong mây.

Phù điêu thực hiện bằng kỹ thuật ốp mảnh sứ men trắng vẽ lam, một kỹ thuật khá thịnh hành ở các chùa miếu, lăng tẩm Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sắc hoa văn mảnh sứ tạo nên sự rực rỡ, trang nhã và sống động cho bức phù điêu. Đối diện với bức phù điêu và phía trước chính điện là trụ phướn thanh thoát, cao vút 21m, gồm 42 não. Trụ phướn được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen toả đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá.

Đường lên chính điện là hệ thống 37 bậc tam cấp có lối rộng chừng 2m. Bên phải ngay lối lên là hòn non bộ và lầu trống có Phật Di Lặc ngồi trên cao. Chính giữa là tượng hộ pháp Di Đà. Chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Lân, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo, công phu là báu vật của chùa. Chính điện Niết Bàn thể hiện một bức tượng Phật nhập Niết Bàn rất lớn - có lẽ vì vậy mà ngôi chùa có danh xưng Niết Bàn Tịnh Xá? Tượng Phật nhập Niết Bàn, màu nâu hồng tạo khắc đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, đầu gối lên tay phải, dài 12m nổi bật giữa chính điện. Vị thế của bức tượng, đầu quay về hướng bắc, chân duỗi thẳng hướng nam, theo truyền thuyết là tư thế của Đức Phật khi nhập Niết Bàn trên tảng đá tại Kusinara, gan bàn chân Phật được khắc 52 điểm ấn.

Bức tượng Phật nhập Niết Bàn càng trở nên sinh động, cuốn hút vì được đặt trong không gian có nhiều công trình Phật giáo mang tính nghệ thuật cao: Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhập Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh tươi nổi bật với hai cây Long Thọ đắp nổi nhiều lớp. Những con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, những con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục chầu Đức Phật viên tịch nhập Niết Bàn… Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hoà, thanh khiết tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa sâu lắng chốn cửa Thiền…

Trên bức tường bên phải chính điện treo một bức tranh sơn mài lớn thể hiện cảnh Phật ngồi thiền. Bên cạnh là một bức tranh khác thể hiện vườn Lộc dã, nơi Phật Thích Ca thuyết pháp lần đầu tiên…

Nhìn chung, chính điện Niết Bàn Tịnh Xá không lớn, ngoài những pháp khí nhà chùa, chính điện bài trí nhiều tích Phật, trong đó nổi bật là tượng Đức Phật nhập Niết Bàn, một tác phẩm điêu khắc lớn là niềm tự hào của tăng ni, tu sĩ Phật Giáo Vũng Tàu.
Phía sau chính điện là “Trai đường” của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời Đức Phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần…

Dựa vào thế núi, Niết Bàn Tịnh Xá toạ lạc trên nhiều độ cao khác nhau. Phía trên và sau chính điện thờ Phật Tổ. Điện thờ Phật Tổ bài trí ba bức tượng Phật Thích Ca ngồi thiền rất lớn, theo thế đối xứng. Tầng trên là một mặt bằng rộng, thoáng đạt, gió mát, du khách có thể dõi tầm mắt ra xa phía biển khơi, hoặc dễ dàng quan sát ngắm cảnh bờ biển Bãi Dứa. Khoảng sân thực sự là nơi vãn cảnh của du khách. Ở đây người ta bài trí rất nhiều bon sai, hoa cảnh. Thấp thoáng phía sau những chậu cảnh mỹ thuật là thuyền Bát Nhã, một con rồng lớn cách điệu dày công trang trí và rất đẹp. Xung quanh thuyền được ốp mảnh sứ men lam, men màu.

Nổi bật trên mặt bằng trang trí nhiều hoa cảnh của sân thuyền Bát Nhã là gác chuông lớn nối liền với dãy nhà tĩnh nghỉ của các tu sĩ. Gác chuông được xây theo hình vuông, 4 mái uốn cong, trong tháp có một cái chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3500kg. Đại Hồng Chung không những là chiếc chuông lớn nhất và nặng nhất mà còn có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu.

Từ gác chuông, toàn cảnh Niết Bàn hiện ra trước mặt du khách. Đó là một công trình kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và biển trời, cây xanh và tiếng chuông ngân tha thiết.

Hằng năm, vào dịp các lễ tết, chủ nhật hay ngày rằm, ngày đầu tháng, có hàng vạn lượt khách đến Niết Bàn Tịnh Xá chiêm bái, vãn cảnh. Với một phong cách kiến trúc đặc biệt toạ lạc ở một vị trí tươi đẹp của Bãi Dứa, Niết Bàn Tịnh Xá là một thắng cảnh nổi tiếng của Vũng Tàu được rất nhiều người ở mọi miền đất nước mến mộ và ước mong được một lần vãn cảnh, chiêm bái.

Theo NTO, ảnh internet

Niết Bàn Tịnh Xá (còn gọi là chùa Phật Nằm) tọa lạc tại số 66/7 đường Hạ Long, phường 1, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Việt Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp ở thành phố Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc và tác phẩm điêu khắc đặc sắc.

Nằm ở trung tâm Bãi Dứa, Niết Bàn Tịnh xá được Hòa thượng Thích Thiện Huê tổ chức xây dựng từ năm 1969 đến năm 1974 mới hoàn thành trên triền núi Nhỏ, trước kia có tên là núi Tao Phùng, hướng mặt ra biển. Đây là một công trình đồ sộ gồm nhiều cấp, nhiều dãy nhà trên diện tích gần 10.000m².

Điểm nhấn kiến trúc khác là một cột cờ cao 21m, được làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam ở sân trước chùa. Lối lên rộng rãi, dọc theo triền dốc. Cổng chính nổi bật với bốn chữ Hán: Niết Bàn Tịnh Xá. Hai trụ cổng được khắc đôi câu đối đầy ý nghĩa:

Niết Bàn thị hiện, độ chúng niệm phật tâm thôn, chân giải thoát.
Tịnh xá quang minh, vô lậu giác ngộ chánh pháp, hiển như lai.

Phía trong là hai pho tượng ông Thiện và ông Ác cao lớn đứng trông cửa. Bên phải cổng có một bức phù điêu, rộng 2m, cao 4m chạm hình long mã, đầu rồng, chân ngựa bước trên sóng nước, phía trên hạc bay múa trong mây.

Phù điêu thực hiện bằng kỹ thuật ốp mảnh sứ men trắng vẽ lam, một kỹ thuật khá thịnh hành ở các chùa miếu, lăng tẩm Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sắc hoa văn mảnh sứ tạo nên sự rực rỡ, trang nhã và sống động cho bức phù điêu. Đối diện với bức phù điêu và phía trước chính điện là trụ phướn thanh thoát, cao vút 21m, gồm 42 não. Trụ phướn được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen toả đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá.

Đường lên chính điện là hệ thống 37 bậc tam cấp có lối rộng chừng 2m. Bên phải ngay lối lên là hòn non bộ và lầu trống có Phật Di Lặc ngồi trên cao. Chính giữa là tượng hộ pháp Di Đà. Chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Lân, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo, công phu là báu vật của chùa. Chính điện Niết Bàn thể hiện một bức tượng Phật nhập Niết Bàn rất lớn - có lẽ vì vậy mà ngôi chùa có danh xưng Niết Bàn Tịnh Xá? Tượng Phật nhập Niết Bàn, màu nâu hồng tạo khắc đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, đầu gối lên tay phải, dài 12m nổi bật giữa chính điện. Vị thế của bức tượng, đầu quay về hướng bắc, chân duỗi thẳng hướng nam, theo truyền thuyết là tư thế của Đức Phật khi nhập Niết Bàn trên tảng đá tại Kusinara, gan bàn chân Phật được khắc 52 điểm ấn.

Bức tượng Phật nhập Niết Bàn càng trở nên sinh động, cuốn hút vì được đặt trong không gian có nhiều công trình Phật giáo mang tính nghệ thuật cao: Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhập Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh tươi nổi bật với hai cây Long Thọ đắp nổi nhiều lớp. Những con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, những con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục chầu Đức Phật viên tịch nhập Niết Bàn… Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hoà, thanh khiết tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa sâu lắng chốn cửa Thiền…

Trên bức tường bên phải chính điện treo một bức tranh sơn mài lớn thể hiện cảnh Phật ngồi thiền. Bên cạnh là một bức tranh khác thể hiện vườn Lộc dã, nơi Phật Thích Ca thuyết pháp lần đầu tiên…

Nhìn chung, chính điện Niết Bàn Tịnh Xá không lớn, ngoài những pháp khí nhà chùa, chính điện bài trí nhiều tích Phật, trong đó nổi bật là tượng Đức Phật nhập Niết Bàn, một tác phẩm điêu khắc lớn là niềm tự hào của tăng ni, tu sĩ Phật Giáo Vũng Tàu.
Phía sau chính điện là “Trai đường” của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời Đức Phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần…

Dựa vào thế núi, Niết Bàn Tịnh Xá toạ lạc trên nhiều độ cao khác nhau. Phía trên và sau chính điện thờ Phật Tổ. Điện thờ Phật Tổ bài trí ba bức tượng Phật Thích Ca ngồi thiền rất lớn, theo thế đối xứng. Tầng trên là một mặt bằng rộng, thoáng đạt, gió mát, du khách có thể dõi tầm mắt ra xa phía biển khơi, hoặc dễ dàng quan sát ngắm cảnh bờ biển Bãi Dứa. Khoảng sân thực sự là nơi vãn cảnh của du khách. Ở đây người ta bài trí rất nhiều bon sai, hoa cảnh. Thấp thoáng phía sau những chậu cảnh mỹ thuật là thuyền Bát Nhã, một con rồng lớn cách điệu dày công trang trí và rất đẹp. Xung quanh thuyền được ốp mảnh sứ men lam, men màu.

Nổi bật trên mặt bằng trang trí nhiều hoa cảnh của sân thuyền Bát Nhã là gác chuông lớn nối liền với dãy nhà tĩnh nghỉ của các tu sĩ. Gác chuông được xây theo hình vuông, 4 mái uốn cong, trong tháp có một cái chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3500kg. Đại Hồng Chung không những là chiếc chuông lớn nhất và nặng nhất mà còn có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu.

Từ gác chuông, toàn cảnh Niết Bàn hiện ra trước mặt du khách. Đó là một công trình kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và biển trời, cây xanh và tiếng chuông ngân tha thiết.

Hằng năm, vào dịp các lễ tết, chủ nhật hay ngày rằm, ngày đầu tháng, có hàng vạn lượt khách đến Niết Bàn Tịnh Xá chiêm bái, vãn cảnh. Với một phong cách kiến trúc đặc biệt toạ lạc ở một vị trí tươi đẹp của Bãi Dứa, Niết Bàn Tịnh Xá là một thắng cảnh nổi tiếng của Vũng Tàu được rất nhiều người ở mọi miền đất nước mến mộ và ước mong được một lần vãn cảnh, chiêm bái.

Theo NTO, ảnh internet

Nhà thờ Trà Vinh tọa lạc tại đường Lê Lợi, phường 1, thành phố Trà Vinh được xây dựng năm 1902, ban đầu trực thuộc tỉnh Sóc Trăng.

Họ đạo Trà Vinh manh nha hình thành trước năm 1863 trong thời kỳ cấm cách - khi triều đình ra chiếu chỉ cấm đạo thì Miền Trung có nhiều người có đạo trốn vào Nam kỳ, tản ra Giồng Tượng (Bãi Xan) - Mặc Bắc - Chà Và - Cổ Chiên - Khâu Băng (Thạnh Phú),... không còn sử liệu. Chỉ biết rằng thời đó, có các Cha thừa sai dòng Phanxicô Tây Ban Nha làm tuyên úy cho quân đội Pháp đã lén lút ghé qua. Dựa vào sổ sách năm 1902, Cha Bourgeois và Cha Guéguend tái lập lại và xây dựng Nhà thờ.

Trà Vinh bấy giờ chỉ là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng. Dân chúng đa số là Khmer. Có các Cha Mặc Bắc - Giồng Rùm thỉnh thoảng ghé thăm. Khi Cha đến Trà Vinh - lúc chưa có Nhà thờ - thì làm lễ tại nhà ông Thầy Trần.

Có tư liệu khác cho biết là năm 1877, Cha Hiền (P. Favier) có cất một nhà tạm trú cho các Cha qua lại và một Nhà nguyện nhỏ. Đến năm 1902, (Cha Lân) P. Bourgeois cất lại khá hơn. Cha (P. Guéguend) cất nhà Cha sở và Cha bộ (P. Bosvieux) đến thế hoàn thành nhà thờ vào năm 1909 qua các bước sau:

1914: Cha Fx. Binh lợp mái ngói Nhà thờ.
1935: Cha Fx xây tháp Nhà thờ, có gia đình ông Phán Trí hỗ trợ
1950: Cha Joan Sinh xây trường Thánh Gioan
1947: Cha Pet Vỡ xây núi Đức Mẹ, có sự giúp đỡ của cô Hai Sa (người lương)
1963: Cha Et Hồng tu bổ bộ ghế Nhà thờ.
1980: Cha Pet Dư xây đài Đức Mẹ.

Đến thời Cha Antôn Khương từ năm 1990 tới nay: đại tu toàn bộ, mới có được bộ mặt đẹp đẽ như ngày nay.

Trà Vinh hiện nay có gần 3000 người có đạo, có hai họ nhỏ là Cam Son và Tân Hạnh. Từ 1996, Cha Pet Ngô Văn Be được bổ nhiệm về làm Cha phó Trà Vinh.

Trà vinh còn có nhà thờ lớn khác là nhà thờ Vĩnh Kim (còn có tên gọi khác là nhà thờ Chà Và) tọa lạc tại ấp Chà Và, xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Họ đạo Vĩnh Kim nằm dọc theo quốc lộ 53, cách Trà Vinh 17km về hướng Đông Nam. Nhà thờ được thành lập vào khoảng năm 1970 đến 1985.

Vì thiếu tài liệu nên khó xác định cách chính xác thời gian và những giai đoạn hình thành. Tuy nhiên, dựa theo sử liệu của cha Thánh Philipphê Phan Văn Minh, có thể khẳng định: họ đạo Vĩnh Kim đã có mặt trước năm 1852.

Do cơn bách đạo quá ác liệt ở Miền Trung, một số giáo dân ở đây đã dùng ghe bầu trốn chạy về Phương Nam. Một số đã dừng chân lại ở Vĩnh Kim. Và cộng đoàn họ đạo đã hình thành từ đó.

Người ta còn nhớ đến tên ông Bốn, Ông Thương, Bầu Văng, Bầu Ý, Bầu Sang...có lẽ đây là những người đầu tiên trong giai đoạn hình thành.

Vào khoảng những năm 1870 - 1875, ngôi Thánh đường bằng lá được dựng lên. Và cha sở đầu tiên để lại bút tích trong sổ rửa tội là cha Jean Favier và tiếp theo sau là một loạt các cha Thừa Sai Ba-lê (M.E.P).

Đến năm 1914, cha Jean Guéguend (M.E.P) tháo gỡ ngôi Thánh đường cũ dời sang địa điểm mới và cho xây cất một ngôi Thánh đường nguy nga, đẹp mang phong cách Tây phương...

Qua những thăng trầm của lịch sử, họ đạo Vĩnh Kim vẫn phát triển mặc dù chậm. Ban quản lý họ đạo gồm 36 người, rất nhiệt thành để giúp đỡ cho hơn 4390 giáo dân. Bên cạnh còn có : Hội Legio, hội Phạt Tạ, Hội dòng 3 Camêlô, Ca đoàn, ban giúp lễ, Giới trẻ, Thiếu nhi, Hội thiện tử.

Korean Air! - Theo NTO, internet

Nhà thờ Trà Vinh tọa lạc tại đường Lê Lợi, phường 1, thành phố Trà Vinh được xây dựng năm 1902, ban đầu trực thuộc tỉnh Sóc Trăng.

Họ đạo Trà Vinh manh nha hình thành trước năm 1863 trong thời kỳ cấm cách - khi triều đình ra chiếu chỉ cấm đạo thì Miền Trung có nhiều người có đạo trốn vào Nam kỳ, tản ra Giồng Tượng (Bãi Xan) - Mặc Bắc - Chà Và - Cổ Chiên - Khâu Băng (Thạnh Phú),... không còn sử liệu. Chỉ biết rằng thời đó, có các Cha thừa sai dòng Phanxicô Tây Ban Nha làm tuyên úy cho quân đội Pháp đã lén lút ghé qua. Dựa vào sổ sách năm 1902, Cha Bourgeois và Cha Guéguend tái lập lại và xây dựng Nhà thờ.

Trà Vinh bấy giờ chỉ là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng. Dân chúng đa số là Khmer. Có các Cha Mặc Bắc - Giồng Rùm thỉnh thoảng ghé thăm. Khi Cha đến Trà Vinh - lúc chưa có Nhà thờ - thì làm lễ tại nhà ông Thầy Trần.

Có tư liệu khác cho biết là năm 1877, Cha Hiền (P. Favier) có cất một nhà tạm trú cho các Cha qua lại và một Nhà nguyện nhỏ. Đến năm 1902, (Cha Lân) P. Bourgeois cất lại khá hơn. Cha (P. Guéguend) cất nhà Cha sở và Cha bộ (P. Bosvieux) đến thế hoàn thành nhà thờ vào năm 1909 qua các bước sau:

1914: Cha Fx. Binh lợp mái ngói Nhà thờ.
1935: Cha Fx xây tháp Nhà thờ, có gia đình ông Phán Trí hỗ trợ
1950: Cha Joan Sinh xây trường Thánh Gioan
1947: Cha Pet Vỡ xây núi Đức Mẹ, có sự giúp đỡ của cô Hai Sa (người lương)
1963: Cha Et Hồng tu bổ bộ ghế Nhà thờ.
1980: Cha Pet Dư xây đài Đức Mẹ.

Đến thời Cha Antôn Khương từ năm 1990 tới nay: đại tu toàn bộ, mới có được bộ mặt đẹp đẽ như ngày nay.

Trà Vinh hiện nay có gần 3000 người có đạo, có hai họ nhỏ là Cam Son và Tân Hạnh. Từ 1996, Cha Pet Ngô Văn Be được bổ nhiệm về làm Cha phó Trà Vinh.

Trà vinh còn có nhà thờ lớn khác là nhà thờ Vĩnh Kim (còn có tên gọi khác là nhà thờ Chà Và) tọa lạc tại ấp Chà Và, xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Họ đạo Vĩnh Kim nằm dọc theo quốc lộ 53, cách Trà Vinh 17km về hướng Đông Nam. Nhà thờ được thành lập vào khoảng năm 1970 đến 1985.

Vì thiếu tài liệu nên khó xác định cách chính xác thời gian và những giai đoạn hình thành. Tuy nhiên, dựa theo sử liệu của cha Thánh Philipphê Phan Văn Minh, có thể khẳng định: họ đạo Vĩnh Kim đã có mặt trước năm 1852.

Do cơn bách đạo quá ác liệt ở Miền Trung, một số giáo dân ở đây đã dùng ghe bầu trốn chạy về Phương Nam. Một số đã dừng chân lại ở Vĩnh Kim. Và cộng đoàn họ đạo đã hình thành từ đó.

Người ta còn nhớ đến tên ông Bốn, Ông Thương, Bầu Văng, Bầu Ý, Bầu Sang...có lẽ đây là những người đầu tiên trong giai đoạn hình thành.

Vào khoảng những năm 1870 - 1875, ngôi Thánh đường bằng lá được dựng lên. Và cha sở đầu tiên để lại bút tích trong sổ rửa tội là cha Jean Favier và tiếp theo sau là một loạt các cha Thừa Sai Ba-lê (M.E.P).

Đến năm 1914, cha Jean Guéguend (M.E.P) tháo gỡ ngôi Thánh đường cũ dời sang địa điểm mới và cho xây cất một ngôi Thánh đường nguy nga, đẹp mang phong cách Tây phương...

Qua những thăng trầm của lịch sử, họ đạo Vĩnh Kim vẫn phát triển mặc dù chậm. Ban quản lý họ đạo gồm 36 người, rất nhiệt thành để giúp đỡ cho hơn 4390 giáo dân. Bên cạnh còn có : Hội Legio, hội Phạt Tạ, Hội dòng 3 Camêlô, Ca đoàn, ban giúp lễ, Giới trẻ, Thiếu nhi, Hội thiện tử.

Korean Air! - Theo NTO, internet

Tây An cổ tự tọa lạc tại ngã ba, bên chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, TX.Châu Đốc (An Giang). Đây là một ngôi chùa có lối kiến trúc khá độc đáo, kết hợp hài hòa hai dòng văn hóa Việt-Chăm, được Bộ Văn hóa xếp hạng là "di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” từ năm 1980.

Khai hoang lập chùa

Sự ra đời của ngôi chùa mang dấu ấn về chính sách văn hóa của triều Nguyễn “khai hoang lập chùa”. Đây cũng là nơi gắn với hành trạng của người sáng lập Bửu Sơn Kỳ hương, do đó dân gian thường gọi ông Đoàn Minh Huyên là Phật thầy Tây An.

Trong kế hoạch khai hoang lập đồn điền và các chính sách an dân, các quan nhà Nguyễn đã có sự thỏa thuận với hòa thượng các tông phái Phật giáo, đồn điền lập đến đâu thì xây cất chùa chiền đến đó để lo đời sống tinh thần, giúp dân an cư lạc nghiệp. Dường như chùa Tây An ở núi Sam (TX.Châu Đốc, tỉnh An Giang) ra đời nhằm thực hiện nhất quán chủ trương này.

Lịch sử khai sơn Tây An tự bắt đầu từ quan Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn. Doãn Uẩn (1795-1850) là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Sinh thời, ông là một trong những trụ cột của triều đình, trấn giữ vùng biên cương tây nam, suốt những năm trị vì của vua Thiệu Trị. Ông từng giữ chức Lang trung bộ Hộ, Tham tri bộ Hộ và Án sát Vĩnh Long. Tham gia trấn áp các cuộc nổi dậy và chống ngoại xâm cũng như các chính sách hòa hợp dân tộc. Công trạng của ông được vua Tự Đức cho khắc bia ghi chiến tích, đặt tại Võ miếu.

Vào năm 1842, quân Xiêm lại đem quân xâm lấn biên cương nước ta. Triều đình sai Doãn Uẩn cùng các quan Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hoàng… đem quân đánh dẹp. Năm 1845, quan quân triều đình đã chiếm lại được Hà Tiên và sau trận này Doãn Uẩn được phong làm Tổng đốc Mưu lược tướng, kiêm lý khu vực An Hà (An Giang và Hà Tiên). Trong thời gian kiêm lý An Hà từ 1845 đến 1848, ông đã chủ trì tu sửa và xây mới nhiều chùa chiền trong vùng, trong đó có chùa Tây An. Ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Kỷ Dậu (1850), ông bệnh mất tại An Giang và được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Bài vị của ông được vua cho đặt ở đền Hiền Lương cùng với các danh thần nhà Nguyễn khác.

Khi ngôi chùa xây dựng xong, Tổng đốc Doãn Uẩn cho mời hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh thuộc đời thứ 37, Lâm Tế chánh tông chi phái Thiên khai về trụ trì. Hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh là người từng được vua triệu về làm Tăng cang chùa Thiên Mụ (Huế), được thưởng kim tiền và được lễ bộ cấp giới đao độ điệp (ý nghĩa cho phép thu nhận đệ tử). Mấy mươi năm học hỏi của các tự viện chốn thần kinh, trở về Nam năm 1841, ông là vị cao tăng đầu tiên tổ chức an cư kiết hạ tại tổ đình Giác Lâm và nhiều khóa tại các chùa sắc tứ Từ Ân, Hội Phước (Sa Đéc), Phước Hưng (Sa Đéc). Ông cũng là người thiết lập được nhiều giới đàn. Mỗi giới đàn thường có 3 đàn truyền giới cho tăng, ni... Do đó ông có rất đông đệ tử khắp các tỉnh Nam kỳ. Việc hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh trụ trì Tây An tự dù chỉ trên danh nghĩa (vì lúc này hòa thượng đang trụ trì tổ đình Giác Lâm) đã làm tăng thêm uy tín ngôi chùa mới lập.

Tưởng nhớ công lao của người sáng lập, Thượng tọa Thích Thiện Thống, trụ trì chùa, cho biết Tây An cổ tự đang tiến hành thủ tục để xây nhà tưởng niệm Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn, đồng thời đã trao đổi với gia đình cháu trực hệ của Tổng đốc, thống nhất đưa một số di vật do gia đình còn lưu giữ về trưng bày ở nhà tưởng niệm. Việc làm này tuy có hơi muộn nhưng sẽ góp phần tôn giá trị lịch sử văn hóa của ngôi chùa.

Lối kiến trúc độc đáo

Lịch sử Tây An cổ tự còn gắn liền với hành trạng của Đức Phật thầy Tây An, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ hương. Cố học giả Nguyễn Văn Hầu trong Thất Sơn mầu nhiệm cho biết, Đức Phật thầy chính danh là Đoàn Văn Huyên, sinh năm Đinh Mão (1807), tức năm Gia Long thứ 6. Ông quê ở làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc. Căn cứ những ghi chép của tác giả, hành trạng của Đức Phật thầy có nhiều huyền tích như việc bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi còn nhỏ; chuyện ông một mình kéo cây da bị trốc gốc che chắn lòng sông, chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nấu nước uống, hay chuyện trừ bệnh dịch cứu dân lành…

Duyên nghiệp của Đức Phật thầy với Tây An tự, theo Thượng tọa Thích Thiện Thống thì sau khi ông Đoàn Văn Huyên quy tập tín đồ thành lập Bửu Sơn Kỳ hương tại cốc Ông Kiến ở Chợ Mới, chính quyền sở tại nghi ngờ ông tập hợp lực lượng chống đối lại triều đình nên “mời ông về” giam ở Châu Đốc 3 tháng, sau đó buộc ông “muốn tu thì đến chùa Tây An mà tu hành”. Chùa Tây An giai đoạn này do ngài Minh Khiêm Hoàng Ân (thế hệ 38 Lâm Tế chánh tông) - đệ tử của hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh trụ trì. Song do mối quan hệ mang tính nguyên tắc, ông Huyên chỉ đồng ý thỉnh hòa thượng Tiên Giác đến làm lễ xuất gia cho ông và đặt pháp danh là Minh Huyên, pháp hiệu là Pháp Tạng…

Do xuất gia bất đắc dĩ nên dù ở chùa Tây An nhưng Đoàn Minh Huyên vẫn tìm cách trở về các trại ruộng, tiếp tục tập hợp tín đồ xiển dương Bửu Sơn Kỳ hương. Thời gian này ông đã xây các ngôi chùa Thới Hưng, Thới Sơn… và mở mang trại ruộng cho tín đồ. Khoảng 7 năm sau đó ông qua đời, nhưng vì “lý do an ninh” chính quyền sở tại đã không cho các đệ tử của ông chôn cất ở vùng trại ruộng mà buộc phải di về chùa Tây An an táng. Hiện ngôi mộ của Đức Phật thầy tọa lạc bên phải, phía sau ngôi cổ tự này, tín đồ Bửu Sơn Kỳ hương cũng đã xây dựng một long đình phía sau ngôi mộ để tăng thêm vẻ tôn nghiêm.

Tây An tự tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, khuôn viên chùa có diện tích hơn 1,5 ha. Điểm nhấn ấn tượng nhất của chùa là 3 ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, một mô típ kiến trúc có dáng dấp Ấn Độ lại có bố cục hài hòa với lối kiến trúc chữ tam theo mô típ chùa Việt ở Nam bộ. Thượng tọa Thích Thiện Tống cho biết, khoảng năm 1861, chùa Tây An được trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đây là lần trùng tu xưa nhất, kiến trúc hiện còn lưu giữ. Về sau, người có công đại trùng tu Tây An cổ tự là hòa thượng Bửu Thọ, thế danh Nguyễn Thế Mật. Phong cách mang dáng dấp Ấn Độ có lẽ là do ý tưởng của hòa thượng. Cuộc đại trùng tu này được thực hiện vào năm 1958.

Korean Air! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (Thanhnien), ảnh internet

Tây An cổ tự tọa lạc tại ngã ba, bên chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, TX.Châu Đốc (An Giang). Đây là một ngôi chùa có lối kiến trúc khá độc đáo, kết hợp hài hòa hai dòng văn hóa Việt-Chăm, được Bộ Văn hóa xếp hạng là "di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” từ năm 1980.

Khai hoang lập chùa

Sự ra đời của ngôi chùa mang dấu ấn về chính sách văn hóa của triều Nguyễn “khai hoang lập chùa”. Đây cũng là nơi gắn với hành trạng của người sáng lập Bửu Sơn Kỳ hương, do đó dân gian thường gọi ông Đoàn Minh Huyên là Phật thầy Tây An.

Trong kế hoạch khai hoang lập đồn điền và các chính sách an dân, các quan nhà Nguyễn đã có sự thỏa thuận với hòa thượng các tông phái Phật giáo, đồn điền lập đến đâu thì xây cất chùa chiền đến đó để lo đời sống tinh thần, giúp dân an cư lạc nghiệp. Dường như chùa Tây An ở núi Sam (TX.Châu Đốc, tỉnh An Giang) ra đời nhằm thực hiện nhất quán chủ trương này.

Lịch sử khai sơn Tây An tự bắt đầu từ quan Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn. Doãn Uẩn (1795-1850) là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Sinh thời, ông là một trong những trụ cột của triều đình, trấn giữ vùng biên cương tây nam, suốt những năm trị vì của vua Thiệu Trị. Ông từng giữ chức Lang trung bộ Hộ, Tham tri bộ Hộ và Án sát Vĩnh Long. Tham gia trấn áp các cuộc nổi dậy và chống ngoại xâm cũng như các chính sách hòa hợp dân tộc. Công trạng của ông được vua Tự Đức cho khắc bia ghi chiến tích, đặt tại Võ miếu.

Vào năm 1842, quân Xiêm lại đem quân xâm lấn biên cương nước ta. Triều đình sai Doãn Uẩn cùng các quan Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hoàng… đem quân đánh dẹp. Năm 1845, quan quân triều đình đã chiếm lại được Hà Tiên và sau trận này Doãn Uẩn được phong làm Tổng đốc Mưu lược tướng, kiêm lý khu vực An Hà (An Giang và Hà Tiên). Trong thời gian kiêm lý An Hà từ 1845 đến 1848, ông đã chủ trì tu sửa và xây mới nhiều chùa chiền trong vùng, trong đó có chùa Tây An. Ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Kỷ Dậu (1850), ông bệnh mất tại An Giang và được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Bài vị của ông được vua cho đặt ở đền Hiền Lương cùng với các danh thần nhà Nguyễn khác.

Khi ngôi chùa xây dựng xong, Tổng đốc Doãn Uẩn cho mời hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh thuộc đời thứ 37, Lâm Tế chánh tông chi phái Thiên khai về trụ trì. Hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh là người từng được vua triệu về làm Tăng cang chùa Thiên Mụ (Huế), được thưởng kim tiền và được lễ bộ cấp giới đao độ điệp (ý nghĩa cho phép thu nhận đệ tử). Mấy mươi năm học hỏi của các tự viện chốn thần kinh, trở về Nam năm 1841, ông là vị cao tăng đầu tiên tổ chức an cư kiết hạ tại tổ đình Giác Lâm và nhiều khóa tại các chùa sắc tứ Từ Ân, Hội Phước (Sa Đéc), Phước Hưng (Sa Đéc). Ông cũng là người thiết lập được nhiều giới đàn. Mỗi giới đàn thường có 3 đàn truyền giới cho tăng, ni... Do đó ông có rất đông đệ tử khắp các tỉnh Nam kỳ. Việc hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh trụ trì Tây An tự dù chỉ trên danh nghĩa (vì lúc này hòa thượng đang trụ trì tổ đình Giác Lâm) đã làm tăng thêm uy tín ngôi chùa mới lập.

Tưởng nhớ công lao của người sáng lập, Thượng tọa Thích Thiện Thống, trụ trì chùa, cho biết Tây An cổ tự đang tiến hành thủ tục để xây nhà tưởng niệm Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn, đồng thời đã trao đổi với gia đình cháu trực hệ của Tổng đốc, thống nhất đưa một số di vật do gia đình còn lưu giữ về trưng bày ở nhà tưởng niệm. Việc làm này tuy có hơi muộn nhưng sẽ góp phần tôn giá trị lịch sử văn hóa của ngôi chùa.

Lối kiến trúc độc đáo

Lịch sử Tây An cổ tự còn gắn liền với hành trạng của Đức Phật thầy Tây An, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ hương. Cố học giả Nguyễn Văn Hầu trong Thất Sơn mầu nhiệm cho biết, Đức Phật thầy chính danh là Đoàn Văn Huyên, sinh năm Đinh Mão (1807), tức năm Gia Long thứ 6. Ông quê ở làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc. Căn cứ những ghi chép của tác giả, hành trạng của Đức Phật thầy có nhiều huyền tích như việc bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi còn nhỏ; chuyện ông một mình kéo cây da bị trốc gốc che chắn lòng sông, chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nấu nước uống, hay chuyện trừ bệnh dịch cứu dân lành…

Duyên nghiệp của Đức Phật thầy với Tây An tự, theo Thượng tọa Thích Thiện Thống thì sau khi ông Đoàn Văn Huyên quy tập tín đồ thành lập Bửu Sơn Kỳ hương tại cốc Ông Kiến ở Chợ Mới, chính quyền sở tại nghi ngờ ông tập hợp lực lượng chống đối lại triều đình nên “mời ông về” giam ở Châu Đốc 3 tháng, sau đó buộc ông “muốn tu thì đến chùa Tây An mà tu hành”. Chùa Tây An giai đoạn này do ngài Minh Khiêm Hoàng Ân (thế hệ 38 Lâm Tế chánh tông) - đệ tử của hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh trụ trì. Song do mối quan hệ mang tính nguyên tắc, ông Huyên chỉ đồng ý thỉnh hòa thượng Tiên Giác đến làm lễ xuất gia cho ông và đặt pháp danh là Minh Huyên, pháp hiệu là Pháp Tạng…

Do xuất gia bất đắc dĩ nên dù ở chùa Tây An nhưng Đoàn Minh Huyên vẫn tìm cách trở về các trại ruộng, tiếp tục tập hợp tín đồ xiển dương Bửu Sơn Kỳ hương. Thời gian này ông đã xây các ngôi chùa Thới Hưng, Thới Sơn… và mở mang trại ruộng cho tín đồ. Khoảng 7 năm sau đó ông qua đời, nhưng vì “lý do an ninh” chính quyền sở tại đã không cho các đệ tử của ông chôn cất ở vùng trại ruộng mà buộc phải di về chùa Tây An an táng. Hiện ngôi mộ của Đức Phật thầy tọa lạc bên phải, phía sau ngôi cổ tự này, tín đồ Bửu Sơn Kỳ hương cũng đã xây dựng một long đình phía sau ngôi mộ để tăng thêm vẻ tôn nghiêm.

Tây An tự tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, khuôn viên chùa có diện tích hơn 1,5 ha. Điểm nhấn ấn tượng nhất của chùa là 3 ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, một mô típ kiến trúc có dáng dấp Ấn Độ lại có bố cục hài hòa với lối kiến trúc chữ tam theo mô típ chùa Việt ở Nam bộ. Thượng tọa Thích Thiện Tống cho biết, khoảng năm 1861, chùa Tây An được trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đây là lần trùng tu xưa nhất, kiến trúc hiện còn lưu giữ. Về sau, người có công đại trùng tu Tây An cổ tự là hòa thượng Bửu Thọ, thế danh Nguyễn Thế Mật. Phong cách mang dáng dấp Ấn Độ có lẽ là do ý tưởng của hòa thượng. Cuộc đại trùng tu này được thực hiện vào năm 1958.

Korean Air! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (Thanhnien), ảnh internet

Sùng Hưng cổ tự - ngôi chùa lâu đời nhất ở huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) - hiện là một điểm tham quan không thể thiếu trong các tour du lịch lữ hành trên đảo.  

Sùng Hưng cổ tự tọa lạc trên đường Trần Hưng Đạo (đối diện với trung tâm Viễn Thông, gần chợ đêm Dinh Cậu Phú Quốc).

Khuôn viên chùa khá rộng, gồm các công trình kiến trúc, nhà thờ tổ, tòa chính điện. Các công trình Phật sự trong chùa được làm với mái lợp ngói âm dương và tường gạch từ năm 1924.

Sùng Hưng cổ tự được xây dựng theo phong cách dân gian “trước miếu, sau chùa”. Ngay chính diện là khoảng sân rộng và vườn tỳ ni với sự góp mặt của nhiều loại cây cảnh cùng những pho tượng đắp nổi theo phong cách kiến trúc quen thuộc của Phật giáo. Trong sân chùa có tượng Quan Âm Nam Hải, kế sau là cột cờ. Bên trái nền và miếu cũ có miếu thờ bà Chúa Xứ Nương Nương, bên phải thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Hai bên chánh điện có thờ Thập Điện Diêm Vương và Ngũ Điện Diêm Vương, còn các tượng khác trên bàn thờ chính.

Sau chánh điện là khu Hậu tổ và Hậu liêu. Bên hông chùa có đường lên viếng đài Phật tổ A Di Đà. Phía sau là đài Thích Ca Niết Bàn được xây dựng vào năm 1960 cùng các ngôi miếu và những hàng cây cổ thụ tỏa bóng mát sum suê…Với quy mô và kiến trúc độc đáo, từ lâu chùa Sùng Hưng cùng với đình thần Dương Đông, Dinh bà Thủy Long Thánh mẫu và Dinh Cậu đã trở thành cụm văn hóa tâm linh liên hoàn nơi đảo ngọc.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Sùng Hưng cổ tự là một điểm liên lạc bí mật cho cách mạng. Đặc biệt, hơn 40 năm nay, chùa Sùng Hưng đã liên tục duy trì lễ cúng ngọ Bác Hồ.

Theo Đại đức trụ trì Thích Huệ Thông, do mến mộ và tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên hằng ngày cứ đến giờ Ngọ (12 giờ trưa), thầy trụ trì chùa lại dâng cơm trắng (cơm lạt) cúng Bác, gọi là cúng Ngọ. Cũng theo lời Đại đức Thích Huệ Thông, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969, hòa thượng Thích Huệ Chánh là trụ trì chùa khi ấy đã thường xuyên tổ chức cúng Bác Hồ theo những nghi lễ trang trọng.

Hiện mỗi ngày có khoảng trăm khách thập phương đến Sùng Hưng cổ tự tham quan, vãn cảnh. Nhiều người dân thị trấn Dương Đông cũng thường đến đây dâng hương  trong các dịp lễ tết và thư giãn tĩnh tâm sau những giờ phút lao động căng thẳng.

Korean Air! - Theo Giang Sơn (TNO), internet

Sùng Hưng cổ tự - ngôi chùa lâu đời nhất ở huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) - hiện là một điểm tham quan không thể thiếu trong các tour du lịch lữ hành trên đảo.  

Sùng Hưng cổ tự tọa lạc trên đường Trần Hưng Đạo (đối diện với trung tâm Viễn Thông, gần chợ đêm Dinh Cậu Phú Quốc).

Khuôn viên chùa khá rộng, gồm các công trình kiến trúc, nhà thờ tổ, tòa chính điện. Các công trình Phật sự trong chùa được làm với mái lợp ngói âm dương và tường gạch từ năm 1924.

Sùng Hưng cổ tự được xây dựng theo phong cách dân gian “trước miếu, sau chùa”. Ngay chính diện là khoảng sân rộng và vườn tỳ ni với sự góp mặt của nhiều loại cây cảnh cùng những pho tượng đắp nổi theo phong cách kiến trúc quen thuộc của Phật giáo. Trong sân chùa có tượng Quan Âm Nam Hải, kế sau là cột cờ. Bên trái nền và miếu cũ có miếu thờ bà Chúa Xứ Nương Nương, bên phải thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Hai bên chánh điện có thờ Thập Điện Diêm Vương và Ngũ Điện Diêm Vương, còn các tượng khác trên bàn thờ chính.

Sau chánh điện là khu Hậu tổ và Hậu liêu. Bên hông chùa có đường lên viếng đài Phật tổ A Di Đà. Phía sau là đài Thích Ca Niết Bàn được xây dựng vào năm 1960 cùng các ngôi miếu và những hàng cây cổ thụ tỏa bóng mát sum suê…Với quy mô và kiến trúc độc đáo, từ lâu chùa Sùng Hưng cùng với đình thần Dương Đông, Dinh bà Thủy Long Thánh mẫu và Dinh Cậu đã trở thành cụm văn hóa tâm linh liên hoàn nơi đảo ngọc.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Sùng Hưng cổ tự là một điểm liên lạc bí mật cho cách mạng. Đặc biệt, hơn 40 năm nay, chùa Sùng Hưng đã liên tục duy trì lễ cúng ngọ Bác Hồ.

Theo Đại đức trụ trì Thích Huệ Thông, do mến mộ và tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên hằng ngày cứ đến giờ Ngọ (12 giờ trưa), thầy trụ trì chùa lại dâng cơm trắng (cơm lạt) cúng Bác, gọi là cúng Ngọ. Cũng theo lời Đại đức Thích Huệ Thông, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969, hòa thượng Thích Huệ Chánh là trụ trì chùa khi ấy đã thường xuyên tổ chức cúng Bác Hồ theo những nghi lễ trang trọng.

Hiện mỗi ngày có khoảng trăm khách thập phương đến Sùng Hưng cổ tự tham quan, vãn cảnh. Nhiều người dân thị trấn Dương Đông cũng thường đến đây dâng hương  trong các dịp lễ tết và thư giãn tĩnh tâm sau những giờ phút lao động căng thẳng.

Korean Air! - Theo Giang Sơn (TNO), internet

Bên bờ sông Đốc Vàng Thượng thuộc ấp Nam, xã Tân Thạnh, H.Thanh Bình,  Đồng Tháp, có một ngôi đền gọi là Dinh ông Đốc Vàng, hằng năm đến ngày 15, 16 tháng 2 âm lịch, đồng bào đến lễ bái tấp nập.

< Dinh Đốc Binh Vàng ngày nay.

Dinh hiện nay được trùng tu khá quy mô, cổng chính hướng về phía quốc lộ 30, biển ghi: “Đền thờ thượng tướng quận công Trần Văn Năng”, hai bên có câu đối viết bằng chữ quốc ngữ chân phương: “Trần Ngọc trinh trung thiên cổ tại/Thượng tướng oai linh vạn thế tồn”.

Sự tích

Người địa phương lưu truyền rằng: Khoảng hơn trăm năm trước, khi phá hoang vùng ven vàm rạch Đốc Vàng, người dân phát hiện một ngôi miếu cổ đổ nát, trong đó có thờ bài vị “Trần Ngọc Thượng tướng Quận công”.  Ngôi miếu được xác tín là thờ ông Đốc binh Vàng, người có công đánh giặc Xiêm ở sông Cổ Hủ, Vàm Nao dưới triều Minh Mạng. Khi nghe tin thành Châu Đốc thất thủ, ông đã đốt thuyền lương và tự tử tại đây để lương phạn không rơi vào tay giặc. Vua thương tiếc phong tặng tước quận công, dân làng lập miếu thờ. Từ đó, vàm rạch nơi ông qua đời được gọi là Đốc Vàng. Về sau dân trong vùng rủ nhau xây lại miếu.

Truyền thuyết dân gian cũng kể, do ở chỗ khúc cong, nước xoáy mạnh đất lở dần, ngôi miếu có nguy cơ sụp xuống dòng sông. Người dân bàn nhau định dời ngôi miếu. Bấy giờ trong ban tế tự có người nằm mộng thấy ông hiện về bảo dân làng cứ để yên miếu ở chỗ cũ. Lạ thay, thời gian sau, dòng chảy sông Đốc Vàng bỗng đổi hướng, chỗ ngôi miếu chẳng những không còn lở nữa mà mỗi năm cứ bồi thêm ra. Từ sự hiển linh đó, người dân trong vùng tôn ngôi miếu với danh xưng trang trọng hơn là Dinh ông Đốc Vàng.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu (Hội Khoa học lịch sử Đồng Tháp) cho biết, căn cứ vào bài vị nêu trên thì chính xác ngôi miếu cổ xưa (sau được gọi là Dinh ông Đốc Vàng) là nơi thờ Lương tài hầu Trần Văn Năng. Còn Đốc Vàng hay Đốc binh Vàng là một nhân vật gắn liền với huyền tích khác.

Vị quan tài giỏi

Theo sách Đại Nam liệt truyện, Trần Văn Năng người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa, có sức vóc, giỏi võ nghệ, quy thuận chúa Nguyễn rất sớm và lập nhiều công to, được thăng chức Vệ úy, rồi đến chức Đô thống chế... Công trạng của ông được Đại Nam thực lục ghi chép tỉ mỉ. Trong đó, có việc xây dựng Từ Thọ cung dưới triều Minh Mạng năm 1822 và cùng Thoại Ngọc Hầu tổ chức, mộ dân đào kinh Vĩnh Tế... Năm 1833, ông được thăng Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, năm sau được tấn phong Lương tài hầu. Ông là một trong những vị quan nhiều lần được vua ban thưởng.

Năm Minh Mệnh thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), vào lúc tiết đông giá rét, vua làm lễ Đông hưởng. Tế xong, vua thưởng bạc, lụa và một đồng kim tiền Phi long nhỏ cho Trần Văn Năng và các quan đã 70 tuổi. Riêng quan Lương tài hầu Trần Văn Năng còn được vua ban một áo cẩm bào màu tía và bảo: “Gặp tiết đông giá rét, nghĩ khanh tuổi già, ta đặc cách ban cho áo này, để chống rét dữ”. Tháng 6.1833, quân Lê Văn Khôi từ Phiên An đánh lấn ra các tỉnh Nam kỳ và chiếm được Định Tường. Mặc dù tuối đã cao, nhưng Trần Văn Năng vẫn được vua Minh Mạng phong làm Bình khấu Tướng quân cùng Hiệp biện đại học sĩ Lê Đăng Doanh và Vũ lâm dinh Tả dực Thống chế Nguyễn Văn Trọng làm Tham tán đại thần... dẫn binh đi dẹp loạn. Dịp này vua còn ban mỗi người một thanh gươm vàng.

Do Lê Văn Khôi cầu viện, tháng 11 năm Quý Tỵ (1833), quân Xiêm kéo đại binh chia làm 2 đường vào lấn cướp nước ta. An Giang Hà Tiên bị thất thủ. Đồn Châu Đốc bị giặc uy hiếp. Sau nhiều trận giằng co, Bình Khấu tướng quân cùng các tham tán Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân, Hồ Văn Khuê... đã thống lĩnh quân giáng cho giặc một đòn nặng ở Cổ Hủ và Thuận Cảng (Vàm Nao). Biết trước quân Xiêm sẽ dùng hỏa công, quân ta liền thu hết các chiến thuyền về đậu ở hai bên bờ sông. “Giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng hỏa đốt thuyền của ta, rồi đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh”.

Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc quân đánh bắn, từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều. Thủy quân ta thuyền chiến nối nhau, lửa ở giữa sông không cháy lan lên được hai bên bờ. Khi bè lửa trôi qua rồi, quân ta thủy bộ đánh giáp lá cà. Quân Xiêm thua to. Trận đánh này có thể sánh ngang với trận Rạch Gầm - Xoài Mút trên đất Mỹ Tho năm 1785. Từ chiến thắng Cổ Hủ, Bình Khấu, tướng quân Trần Văn Năng cùng các quan quân truy kích chiếm lại Hà Tiên và Châu Đốc. Đẩy lui quân Xiêm về đất Chân Lạp, quân ta đuổi theo tới Nam Vang. Đến đây Bình khấu Tướng quân lâm trọng bệnh, bèn giao binh quyền lại cho Trương Minh Giảng, rồi theo đường thủy về nước. Nhưng thuyền đến Bến Siêu thì ông qua đời, thọ 72 tuổi.

Bấy giờ, vua Minh Mạng hay tin tiếc thương vô hạn, bèn dụ truyền tổ chức tang lễ trọng thể. Ông Nguyễn Hữu Hiếu, người có công đi tìm lai lịch ngôi đền cho biết, mộ Lương Thành hầu hiện tọa lạc trên triền núi Hoàng Long thuộc thôn Thượng II, xã Thượng Xuân, TP.Huế.  Tuy nhiên, không hiểu sao lại không được chôn cất theo điển lệ dành cho quan đại thần mà chỉ là một ngôi mộ đất bình thường.

Korean Air! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (báo Thanhnien), internet

Bên bờ sông Đốc Vàng Thượng thuộc ấp Nam, xã Tân Thạnh, H.Thanh Bình,  Đồng Tháp, có một ngôi đền gọi là Dinh ông Đốc Vàng, hằng năm đến ngày 15, 16 tháng 2 âm lịch, đồng bào đến lễ bái tấp nập.

< Dinh Đốc Binh Vàng ngày nay.

Dinh hiện nay được trùng tu khá quy mô, cổng chính hướng về phía quốc lộ 30, biển ghi: “Đền thờ thượng tướng quận công Trần Văn Năng”, hai bên có câu đối viết bằng chữ quốc ngữ chân phương: “Trần Ngọc trinh trung thiên cổ tại/Thượng tướng oai linh vạn thế tồn”.

Sự tích

Người địa phương lưu truyền rằng: Khoảng hơn trăm năm trước, khi phá hoang vùng ven vàm rạch Đốc Vàng, người dân phát hiện một ngôi miếu cổ đổ nát, trong đó có thờ bài vị “Trần Ngọc Thượng tướng Quận công”.  Ngôi miếu được xác tín là thờ ông Đốc binh Vàng, người có công đánh giặc Xiêm ở sông Cổ Hủ, Vàm Nao dưới triều Minh Mạng. Khi nghe tin thành Châu Đốc thất thủ, ông đã đốt thuyền lương và tự tử tại đây để lương phạn không rơi vào tay giặc. Vua thương tiếc phong tặng tước quận công, dân làng lập miếu thờ. Từ đó, vàm rạch nơi ông qua đời được gọi là Đốc Vàng. Về sau dân trong vùng rủ nhau xây lại miếu.

Truyền thuyết dân gian cũng kể, do ở chỗ khúc cong, nước xoáy mạnh đất lở dần, ngôi miếu có nguy cơ sụp xuống dòng sông. Người dân bàn nhau định dời ngôi miếu. Bấy giờ trong ban tế tự có người nằm mộng thấy ông hiện về bảo dân làng cứ để yên miếu ở chỗ cũ. Lạ thay, thời gian sau, dòng chảy sông Đốc Vàng bỗng đổi hướng, chỗ ngôi miếu chẳng những không còn lở nữa mà mỗi năm cứ bồi thêm ra. Từ sự hiển linh đó, người dân trong vùng tôn ngôi miếu với danh xưng trang trọng hơn là Dinh ông Đốc Vàng.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu (Hội Khoa học lịch sử Đồng Tháp) cho biết, căn cứ vào bài vị nêu trên thì chính xác ngôi miếu cổ xưa (sau được gọi là Dinh ông Đốc Vàng) là nơi thờ Lương tài hầu Trần Văn Năng. Còn Đốc Vàng hay Đốc binh Vàng là một nhân vật gắn liền với huyền tích khác.

Vị quan tài giỏi

Theo sách Đại Nam liệt truyện, Trần Văn Năng người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa, có sức vóc, giỏi võ nghệ, quy thuận chúa Nguyễn rất sớm và lập nhiều công to, được thăng chức Vệ úy, rồi đến chức Đô thống chế... Công trạng của ông được Đại Nam thực lục ghi chép tỉ mỉ. Trong đó, có việc xây dựng Từ Thọ cung dưới triều Minh Mạng năm 1822 và cùng Thoại Ngọc Hầu tổ chức, mộ dân đào kinh Vĩnh Tế... Năm 1833, ông được thăng Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, năm sau được tấn phong Lương tài hầu. Ông là một trong những vị quan nhiều lần được vua ban thưởng.

Năm Minh Mệnh thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), vào lúc tiết đông giá rét, vua làm lễ Đông hưởng. Tế xong, vua thưởng bạc, lụa và một đồng kim tiền Phi long nhỏ cho Trần Văn Năng và các quan đã 70 tuổi. Riêng quan Lương tài hầu Trần Văn Năng còn được vua ban một áo cẩm bào màu tía và bảo: “Gặp tiết đông giá rét, nghĩ khanh tuổi già, ta đặc cách ban cho áo này, để chống rét dữ”. Tháng 6.1833, quân Lê Văn Khôi từ Phiên An đánh lấn ra các tỉnh Nam kỳ và chiếm được Định Tường. Mặc dù tuối đã cao, nhưng Trần Văn Năng vẫn được vua Minh Mạng phong làm Bình khấu Tướng quân cùng Hiệp biện đại học sĩ Lê Đăng Doanh và Vũ lâm dinh Tả dực Thống chế Nguyễn Văn Trọng làm Tham tán đại thần... dẫn binh đi dẹp loạn. Dịp này vua còn ban mỗi người một thanh gươm vàng.

Do Lê Văn Khôi cầu viện, tháng 11 năm Quý Tỵ (1833), quân Xiêm kéo đại binh chia làm 2 đường vào lấn cướp nước ta. An Giang Hà Tiên bị thất thủ. Đồn Châu Đốc bị giặc uy hiếp. Sau nhiều trận giằng co, Bình Khấu tướng quân cùng các tham tán Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân, Hồ Văn Khuê... đã thống lĩnh quân giáng cho giặc một đòn nặng ở Cổ Hủ và Thuận Cảng (Vàm Nao). Biết trước quân Xiêm sẽ dùng hỏa công, quân ta liền thu hết các chiến thuyền về đậu ở hai bên bờ sông. “Giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng hỏa đốt thuyền của ta, rồi đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh”.

Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc quân đánh bắn, từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều. Thủy quân ta thuyền chiến nối nhau, lửa ở giữa sông không cháy lan lên được hai bên bờ. Khi bè lửa trôi qua rồi, quân ta thủy bộ đánh giáp lá cà. Quân Xiêm thua to. Trận đánh này có thể sánh ngang với trận Rạch Gầm - Xoài Mút trên đất Mỹ Tho năm 1785. Từ chiến thắng Cổ Hủ, Bình Khấu, tướng quân Trần Văn Năng cùng các quan quân truy kích chiếm lại Hà Tiên và Châu Đốc. Đẩy lui quân Xiêm về đất Chân Lạp, quân ta đuổi theo tới Nam Vang. Đến đây Bình khấu Tướng quân lâm trọng bệnh, bèn giao binh quyền lại cho Trương Minh Giảng, rồi theo đường thủy về nước. Nhưng thuyền đến Bến Siêu thì ông qua đời, thọ 72 tuổi.

Bấy giờ, vua Minh Mạng hay tin tiếc thương vô hạn, bèn dụ truyền tổ chức tang lễ trọng thể. Ông Nguyễn Hữu Hiếu, người có công đi tìm lai lịch ngôi đền cho biết, mộ Lương Thành hầu hiện tọa lạc trên triền núi Hoàng Long thuộc thôn Thượng II, xã Thượng Xuân, TP.Huế.  Tuy nhiên, không hiểu sao lại không được chôn cất theo điển lệ dành cho quan đại thần mà chỉ là một ngôi mộ đất bình thường.

Korean Air! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (báo Thanhnien), internet

Chùa Bửu Long có tên chính thức Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất, tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa có khuôn viên rộng hơn 11ha, nằm trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc.

Chùa Bửu Long có tên chính thức Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất, tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh . Chùa có khuôn viên rộng hơn 11ha nằm trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc.

Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) do cư sĩ Võ Hà Thuật thành lập năm 1942, đến năm 1958, ông dâng cúng cho thiền sư Hộ Tông, vị tăng thống đầu tiên của Phật giáo nguyên thủy Việt Nam, lập thành Thiền viện Bửu Long và ông xuất gia với pháp danh Lão Tâm.

Năm 1961, Ngài Narada Mahàthera, Đức tăng thống Phật giáo SriLanKa tặng Thiền viện một cây bồ đề chiết từ cây mẹ tại Bồ đề Đạo Tràng Ấn Độ, được đem trồng trong khuôn viên chùa, nay đã được tôn tạo thành Bồ đề Phật Cảnh.

Kiến trúc chùa theo văn hóa Phật giáo cổ đại và liên tục được trùng tu tôn tạo gồm chính điện, tăng xá, trai đường, tăng khách đường, tổ đường, thiền thất của chư tăng, ni viện, ni xá và am thất của tu nữ, tịnh nhân.

Ngoài ra còn có một động khổ hạnh tưởng niệm 6 năm Bồ Tát tu khổ hạnh và một tượng Phật nằm tạc từ đá granite dài 8m, nặng trên 50 tấn, xung quanh trang trí 10 trụ đèn cũng bằng đá granite điêu khắc theo mẫu trụ đá vua Asoka tại các Phật tích Ấn Độ .

Đặc biệt, chùa Bửu Long có một Bảo tháp Gotama Cetiya thờ xá lợi Đức Phật và Chư Thánh Tăng, rộng trên 2.000m², cao 70m, một kiến trúc vừa hoành tráng hiện đại vừa biểu hiện nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á.

Chánh điện ngày nay được trùng tu từ di tích cũ nơi Tổ sư và Đại Đức Lão Tâm để lại, chủ yếu là tôn tạo cho khang trang và tiện nghi hơn nhưng vẫn giữ lại hình dáng như cũ, chỉ thêm phần tiền đường và một vài chi tiết phối hợp giữa kiến trúc Phật giáo Đông Nam Á với kiến trúc triều đại nhà Nguyễn.

Tọa lạc trên một ngọn đồi nên không khí nơi đây mát mẻ quanh năm, kết hợp với khuôn viên rộng rãi, cây xanh phủ bóng làm cho du khách cảm thấy tâm hồn thanh tịnh dịu dàng khi bước chân đến nơi này. Ngước mắt lên bầu trời xanh, ngắm nhìn tòa bảo tháp uy nghiêm lộng lẫy, văng vẳng bên tay là tiếng chuông gió phát ra từ trên đỉnh Bảo tháp, một không gian lý tưởng để bạn gột rửa tâm hồn, tìm về chốn bình yên sau bao bộn bề của cuộc sống.

Korean Air! - Theo Xzone, Tinhte và nhiều nguồn ảnh khác.

Chùa Bửu Long có tên chính thức Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất, tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa có khuôn viên rộng hơn 11ha, nằm trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc.

Chùa Bửu Long có tên chính thức Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất, tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh . Chùa có khuôn viên rộng hơn 11ha nằm trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc.

Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) do cư sĩ Võ Hà Thuật thành lập năm 1942, đến năm 1958, ông dâng cúng cho thiền sư Hộ Tông, vị tăng thống đầu tiên của Phật giáo nguyên thủy Việt Nam, lập thành Thiền viện Bửu Long và ông xuất gia với pháp danh Lão Tâm.

Năm 1961, Ngài Narada Mahàthera, Đức tăng thống Phật giáo SriLanKa tặng Thiền viện một cây bồ đề chiết từ cây mẹ tại Bồ đề Đạo Tràng Ấn Độ, được đem trồng trong khuôn viên chùa, nay đã được tôn tạo thành Bồ đề Phật Cảnh.

Kiến trúc chùa theo văn hóa Phật giáo cổ đại và liên tục được trùng tu tôn tạo gồm chính điện, tăng xá, trai đường, tăng khách đường, tổ đường, thiền thất của chư tăng, ni viện, ni xá và am thất của tu nữ, tịnh nhân.

Ngoài ra còn có một động khổ hạnh tưởng niệm 6 năm Bồ Tát tu khổ hạnh và một tượng Phật nằm tạc từ đá granite dài 8m, nặng trên 50 tấn, xung quanh trang trí 10 trụ đèn cũng bằng đá granite điêu khắc theo mẫu trụ đá vua Asoka tại các Phật tích Ấn Độ .

Đặc biệt, chùa Bửu Long có một Bảo tháp Gotama Cetiya thờ xá lợi Đức Phật và Chư Thánh Tăng, rộng trên 2.000m², cao 70m, một kiến trúc vừa hoành tráng hiện đại vừa biểu hiện nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á.

Chánh điện ngày nay được trùng tu từ di tích cũ nơi Tổ sư và Đại Đức Lão Tâm để lại, chủ yếu là tôn tạo cho khang trang và tiện nghi hơn nhưng vẫn giữ lại hình dáng như cũ, chỉ thêm phần tiền đường và một vài chi tiết phối hợp giữa kiến trúc Phật giáo Đông Nam Á với kiến trúc triều đại nhà Nguyễn.

Tọa lạc trên một ngọn đồi nên không khí nơi đây mát mẻ quanh năm, kết hợp với khuôn viên rộng rãi, cây xanh phủ bóng làm cho du khách cảm thấy tâm hồn thanh tịnh dịu dàng khi bước chân đến nơi này. Ngước mắt lên bầu trời xanh, ngắm nhìn tòa bảo tháp uy nghiêm lộng lẫy, văng vẳng bên tay là tiếng chuông gió phát ra từ trên đỉnh Bảo tháp, một không gian lý tưởng để bạn gột rửa tâm hồn, tìm về chốn bình yên sau bao bộn bề của cuộc sống.

Korean Air! - Theo Xzone, Tinhte và nhiều nguồn ảnh khác.

Đền Lăng Sương xưa (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay) tương truyền là nơi sinh của bà Âu Cơ, là nơi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ rồi nên vợ thành chồng.

Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống các di tích thờ Tản Viên vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thờ Tản viên Sơn Thánh là một trong bốn vị thần “tứ bất tử” của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam.

Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần “Thượng đẳng tối linh”, “Đệ nhất phúc thần” đứng đầu “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt. Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Thánh Tản.

Đây có thể coi là mảnh đất “chôn nhau, cắt rốn” của vị thần linh tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu - người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như Mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước…

Cổng đền có đôi câu đối “Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch/ Địa lưu thần tích hiển Nam bang” (tạm dịch: Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc/ Đất lưu thần tích hiến  trời Nam). Và “Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần/ Bả thác long linh giáng hạ trần” (tạm dịch nghĩa: Lăng Sương ngọc sáng, ngọc tinh thần/ Máng dấu rồng thiếng xuống hạ trần).

Đền chính có kiến trúc kiểu chức công (I) gồm 3 gian đại bái, ống muốn và 3 gian hậu cung. Trong tòa đại bái có xây bệ thờ tượng Cao Sơn và Quý Minh là bộ tướng có công giúp Tản Viên dẹp giặc Thục. Tòa hậu cung bài trí long ngai thờ Thánh Mẫu Đinh Thị Đen (mẹ của Tản Viên) và thờ đức Thánh Tản. Trong tòa hậu cung còn thờ Thánh phụ Tản Viên là ông Cao Hành, bà dưỡng mẫu (mẹ nuôi) là Ma Thị và công chúa Ngọc Hoa (vợ Tản Viên). Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía Đông Bắc, tương truyền có ngôi mộ của Thánh Mẫu nay ở đó đã được xây thành lăng tẩm.

Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản). Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25 tháng mười hôm sau.

Còn ngày giỗ chính của Đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội. Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt xa xưa.

Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy…

Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và DU lịch)ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày 12/7/2005 xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Di tích đền Lăng Sương đã được lập quy hoạch tổng thể nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn hóa. Xây dựng Lăng Sương thành một điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh phục vụ du khách thập phương và phát triển kinh tế dịch vụ du lịch là hướng đi đúng của huyện Thanh Thủy và điểm đến của du khách thập phương.

Korean Air! - Theo TTDL, ảnh internet

Đền Lăng Sương xưa (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay) tương truyền là nơi sinh của bà Âu Cơ, là nơi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ rồi nên vợ thành chồng.

Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống các di tích thờ Tản Viên vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thờ Tản viên Sơn Thánh là một trong bốn vị thần “tứ bất tử” của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam.

Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần “Thượng đẳng tối linh”, “Đệ nhất phúc thần” đứng đầu “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt. Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Thánh Tản.

Đây có thể coi là mảnh đất “chôn nhau, cắt rốn” của vị thần linh tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu - người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như Mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước…

Cổng đền có đôi câu đối “Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch/ Địa lưu thần tích hiển Nam bang” (tạm dịch: Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc/ Đất lưu thần tích hiến  trời Nam). Và “Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần/ Bả thác long linh giáng hạ trần” (tạm dịch nghĩa: Lăng Sương ngọc sáng, ngọc tinh thần/ Máng dấu rồng thiếng xuống hạ trần).

Đền chính có kiến trúc kiểu chức công (I) gồm 3 gian đại bái, ống muốn và 3 gian hậu cung. Trong tòa đại bái có xây bệ thờ tượng Cao Sơn và Quý Minh là bộ tướng có công giúp Tản Viên dẹp giặc Thục. Tòa hậu cung bài trí long ngai thờ Thánh Mẫu Đinh Thị Đen (mẹ của Tản Viên) và thờ đức Thánh Tản. Trong tòa hậu cung còn thờ Thánh phụ Tản Viên là ông Cao Hành, bà dưỡng mẫu (mẹ nuôi) là Ma Thị và công chúa Ngọc Hoa (vợ Tản Viên). Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía Đông Bắc, tương truyền có ngôi mộ của Thánh Mẫu nay ở đó đã được xây thành lăng tẩm.

Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản). Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25 tháng mười hôm sau.

Còn ngày giỗ chính của Đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội. Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt xa xưa.

Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy…

Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và DU lịch)ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày 12/7/2005 xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Di tích đền Lăng Sương đã được lập quy hoạch tổng thể nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn hóa. Xây dựng Lăng Sương thành một điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh phục vụ du khách thập phương và phát triển kinh tế dịch vụ du lịch là hướng đi đúng của huyện Thanh Thủy và điểm đến của du khách thập phương.

Korean Air! - Theo TTDL, ảnh internet