Hiển thị các bài đăng có nhãn Di tích lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Di tích lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Vị thần trên trời xuống tắm, rồi vẽ lại những hình thù trên tảng đá. Những hình vẽ đó sẽ mang lại những điều tốt lành cho người dân.

< Tác giả bên những tảng đá có hình khắc bí ẩn trưng bày ở thủy điện Sơn La.

Công trình thủy điện Sơn La hùng vĩ đã khánh thành. Các tuốc-bin đã hoạt động, sản sinh ra dòng điện lớn cho đất nước. Rất nhiều du khách lên Sơn La, đều muốn chiêm ngưỡng công trình hoành tráng này. Ngay con đường vào đập thủy điện, là khu nhà trưng bày những cổ vật khai quật dưới lòng hồ thủy điện. Giữa sân là những tảng đá lớn, mà phải quan sát kỹ, mới thấy những hình khắc.

< Tác giả bên tảng đá có hình khắc ở bản Pá Màng gần 10 năm trước, khi chưa được đưa về thủy điện Sơn La.

Nhìn những khối đá cổ chuyển từ bãi đá Pá Màng (xã Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) về đây, lòng tôi trào dâng cảm xúc. Cách đây gần 10 năm, tôi đã mất 2 ngày trời, vừa đi xe máy, đi bộ, đi thuyền, để được chiêm ngưỡng những tảng đá lúc chìm, lúc nổi bên sông Đà. Hành trình vất vả đó, chỉ với mong muốn được tận mắt những hình vẽ trên khối đá, trước khi nó biến mất vĩnh viễn dưới lòng hồ. Nhưng không ngờ, những tảng đá có hình khắc cổ xưa đã được khiêng về trưng bày ở ngay thủy điện Sơn La. Cảm giác được xem lại tác phẩm nghệ thuật của tổ tiên tưởng như sẽ biến mất thật khó tả.

< Mùa lũ, những tảng đá có hình khắc cổ lại chìm dưới lòng sông.

10 năm trước, con đường từ xã Chiềng Khoang (Quỳnh Nhai) vào xã Liệp Muội quanh co, dốc ngược, khủng khiếp như đường… lên giời. Từ Liệp Muội phải cuốc bộ suốt ngày trời mới vào được xã Nậm Ét. Con đường mòn bé xíu hun hút trong rừng thẳm. Cuốc bộ từ sáng sớm đến chiều tối mới ra đến bờ sông Đà. Ngủ đêm ở bến sông, rồi hôm sau thuê thuyền xuôi sông Đà 2 tiếng nữa mới đến trung tâm xã Liệp Tè. Chỉ có 2 cách duy nhất vào xã Liệp Tè là cuốc bộ xuyên rừng hoặc cưỡi thuyền vượt thác.

< Hình khắc trên tảng đá Pá Màng.

Trung tâm xã Liệp Tè là chỉ có 3 ngôi nhà, gồm trụ sở ủy ban, trường học và ngôi nhà nghỉ chân của người lái đò cùng khách đi đò. Chủ tịch xã Tòng Xuân Sáng cùng các vị lãnh đạo chẳng có việc gì làm, nên ngồi uống rượu từ trưa đến xế chiều. Bao năm nay, các cán bộ và nhân dân sống trong cảnh phấp phỏng chờ nước ngập.

Ông Sáng bảo, ngoài cán bộ khảo sát, thì có thêm các nhà khảo cổ cất công tìm vào Liệp Tè nghiên cứu, đào bới. Lần đầu tiên các vị cán bộ xã được đón… nhà báo. Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Lò Văn Sáy được phân công nhiệm vụ đưa nhà báo đi xem bãi đá cổ Pá Màng. Hóa ra, bãi đá Pá Màng nằm ngay mép sông, chỗ bến đò.

Ông Sáy bảo, ngay bãi sông, chỗ bến đò, các nhà khoa học đào được rất nhiều cổ vật. Năm 1996, người dân đào móng nhà, thu được vô số cổ vật bằng đá, bằng đồng, gốm. Những chiếc rìu, giáo, những lọ gốm cổ có đến hàng ngàn món. Dân đào đồ cổ thuê thuyền từ mãi Hòa Bình ngược lên đào bới, khuân đi vô số đồ cổ.

Những món đồ cổ bằng đá, đồng hiện vẫn có nhiều trong nhà dân. Các thầy mo, thầy cúng giữ rất nhiều đồ đồng, đồ đá. Họ coi đó là những vật thiêng tổ tiên để lại, nên cứ truyền từ đời trước đến đời sau cất giữ. Sau này, trao đổi với các nhà khoa học mới biết rằng, khu vực xã Pá Màng từng là một xưởng chế tác thủ công của người xưa. Theo lời ông Sáy, năm 1997, nghe tin phát hiện nhiều cổ vật ở Pá Màng, các nhà khảo cổ từ Hà Nội cũng đã đi thuyền ngược sông Đà lên đây căng dây, khoanh vùng, đào bới nhiều chỗ, mang về vô số cổ vật.

< Hòn đá khắc cổ được đánh số 1 bị vỡ mất một miếng. Hình khắc trên những hòn đá cổ vẫn là bí ẩn chưa được giải mã 

Nhóm nhà khảo cổ đó đến từ Viện Khảo cổ học Việt Nam. Là người trực tiếp khai quật, nghiên cứu về di chỉ Pá Màng, TS. Nguyễn Khắc Sử đánh giá về di chỉ này như sau: “Di chỉ khảo cổ Pá Màng là một di chỉ cư trú thềm sông có hai mức phát triển khác nhau.

Mức sớm nhất là lớp văn hóa nằm dưới độ sâu 1m, chứa công cụ cuội ghè đẽo, có thể trước văn hóa Hòa Bình, nhưng không hẳn là văn hoá Sơn Vi. Mức muộn hơn nằm ở bề mặt xuống đến 1m sâu chứa rất nhiều đồ gốm có khắc gạch, hoa văn cùng với bàn mài, thổ hoàng và sỉ đồng. Vì vậy, lớp văn hóa này thuộc sơ kỳ thời đại kim khí, cách ngày nay trên dưới 4.000 năm…”.

Cũng theo TS. Nguyễn Khắc Sử, việc phát hiện di chỉ Pá Màng đã chỉ ra sự phát triển sớm muộn của hai lớp cư dân trong cùng một di chỉ, trường hợp thật hiếm hoi ở miền Tây Bắc.

< Bãi đá Pá Màng mùa nước cạn.

Ông Sáy dẫn tôi ra mép sông Đà. Chúng tôi sắn quần lội bì bõm ra giữa sông. Ông Sáy chỉ mấy hòn đá nhô lên khỏi mặt nước và bảo đó chính là những hòn đá có hình khắc. Mùa lũ, nước sông Đà dâng cao, cuồn cuộn chảy, nhấn chìm những tảng đá này. Nhưng mùa khô, nước sông Đà cạn trơ đáy, tưởng như có thể lội qua sông được, thì những tảng đá có hình khắc nằm hẳn trên bãi sông. Những tảng đá đều sạch bong vì được nước sông rửa ráy mấy tháng trời.

Ông Sáy không biết ai khắc hình lên những tảng đá này. Tổ tiên ông Sáy cũng không biết. Nhưng đồng bào Thái nơi đây vẫn lưu giữ truyền thuyết về những tảng đá này. Người kể lại truyền thuyết về những tảng đá có hình khắc là cụ Lò Văn Hâu, là thầy mo uy tín của bản. Ông Hâu bảo rằng, những tảng đá đó là vật thiêng từ trên trời rơi xuống.

Ngày xưa, bãi sông Pá Màng có tới 40 tảng đá có hình khắc đen bóng nằm cạnh nhau. Vị thần trên trời xuống tắm, rồi vẽ lại những hình thù trên tảng đá. Những hình vẽ đó sẽ mang lại những điều tốt lành cho người dân.

< Những hòn đá có hình khắc bí ẩn được trưng bày ở thủy điện Sơn La.

Đồng bào Thái bản Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) không biết hình khắc trên những tảng đá nằm ven sông có từ bao giờ, nội dung ra sao. Họ tin rằng, những hình khắc đó là do vị thần trên trời xuống sông Đà tắm và để lại. Những hình khắc đó mang lại những điều tốt lành cho người dân.

Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Liệp Tè Lò Văn Sáy cho biết, người dân bản Pá Màng rất tin vào truyền thuyết đó, vì nó được kể bởi thầy mo Lò Văn Hâu. Cụ Hâu thường kể huyền thoại này vào những đêm trăng, hoặc những ngày cuối năm bên bếp lửa cho người trẻ nghe. Tuy nhiên, cụ Hâu đã chết cách nay hơn 20 năm. Theo ông Sáy, cụ thọ tới 120 tuổi. Người dân trong bản rất tin truyền thuyết này, vì đoạn sông Đà chảy qua địa phận bản Pá Màng rất dồi dào tôm cá. Theo lời ông Sáy, cụ Hâu chính là thợ săn cá giỏi nhất vùng.

Mùa lũ, nước từ thượng nguồn sông Đà phóng như tên bắn, gặp đoạn gấp khúc ở Pá Màng tạo thành dòng xoáy mạnh, đục ngàu. Những ngày lũ lớn, nước đục quánh bùn đất, khiến những loài cá yếu nổi trương bụng, nhao nhao lên mặt nước. Đồng bào ở Pá Màng chỉ việc mang vợt ra bãi sông xúc được hàng tạ cá.

Cụ Lò Văn Hâu chính là thợ săn cá chiên tài ba nhất vùng. Mùa nước cạn, nước sông Đà trong vắt. Vũng nước qua Pá Màng sâu hoắm, tới cả chục mét. Những con cá chiên khổng lồ, nặng tới 50-60kg lởn vởn như những bóng ma trong các vụng sâu, xoáy nước. Cụ Hâu cầm theo xiên nhảy ùm xuống vụng xoáy, tìm bọn cá chiên. Cụ đâm thật mạnh vào gáy cá. Chú cá chiên khổng lồ đau đớn, vùng vẫy, rồi nổi bụng chịu chết. Săn được cá chiên khổng lồ, cụ Hâu chia cho cả bản cùng ăn.

Ở Liệp Tè cũng có một số thợ săn cá chiên rất giỏi. Tuy nhiên, loài cá khổng lồ này ngày một hiếm, vả lại công việc này rất nguy hiểm, nên cả chục năm nay, không có ai lặn xuống đáy sông săn cá kiểu tay không nữa. Giờ thủy điện Sơn La ngập nước, Pá Màng và quá nửa xã Liệp Tè đã chìm dưới lòng hồ, nước tĩnh lặng, trong vắt. Loài cá khổng lồ ưa sống ở vùng nước chảy đã ngược lên phía thượng nguồn.

Quay lại chuyện những tảng đá khổng lồ có hình khắc bí ẩn bên bãi Pá Màng. Theo lời cụ Hâu, cách đây 100 năm, bãi Pá Màng có tới 40 hòn đá có hình khắc. Tuy nhiên, trong lần thám sát dọc sông Đà của các nhà khảo cổ vào năm 1977, thì bãi sông Pá Màng chỉ còn 18 hòn đá có hình khắc. Nhưng thời điểm cách nay gần 10 năm, tôi và ông Lò Văn Sáy đếm mãi, mà chỉ thấy còn 5 hòn đá có hình khắc.

< Liệu đây có phải chữ viết cổ của người Việt?

Theo lời ông Sáy, có thể một số tảng đá đã bị mất cắp! Một số hòn đá bị trôi mất, hoặc chìm sâu dưới lòng sông do những chiếc thuyền khai thác vàng ngày đêm moi cát đá dưới lòng sông lọc lấy bụi vàng.

Các hòn đá có tranh khắc hình chim muông, thú, cảnh vật, hình phụ nữ, bông hoa... Niên đại xuất hiện bãi đá cổ được xác định khoảng cuối thời kỳ đồ đá mới - sơ kỳ thời đại kim khí (cách đây từ 5.000 đến 7.000 năm). Những tảng đá có hình khắc vẫn còn tồn tại đến ngày nay vì chúng là những tảng đá lớn, có chân đế sâu, chắc chắn, không thể đào lên được. Những tảng đá nằm ở nơi sơn cùng thủy tận mà cũng bị con người phá hoại, thật tiếc biết bao.

TS. Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học) là người nghiên cứu kỹ lưỡng về những di chỉ khảo cổ trong lòng hồ thủy điện Sơn La. Ông cũng là người từng có nhiều thời gian nghiên cứu những hòn đá có hình khắc ở bãi đá Pá Màng. TS. Sử đã đo đạc tỉ mẩn, vẽ, dập tiêu bản và chụp lại chi tiết các hình khắc trên các hòn đá để nghiên cứu và làm công tác lưu trữ. Tuy nhiên, TS. Sử cũng chưa đưa ra lời giải mã nào về những hình khắc bí ẩn này. Ông mới chỉ dừng lại ở việc mô tả những hình vẽ cổ như sau:

< Những hình khắc mang tính cách điệu cao.

“Hều hết các vết khắc tập trung ở mặt phía Tây Bắc của hòn đá, tức là hướng ra phía sông Đà hoặc chính mặt quay lên trời. Các hình khắc chủ yếu được thể hiện bằng các đường tròn tiếp giáp nhau, hoặc được nối với nhau bằng một gạch nối có thể thẳng, có thể cong.

Có những hình gần như hình người gồm một hình tròn làm đầu, một vạch thẳng làm thân nối với hai chân choãi cong ở dưới. Hình vẽ không thể hiện tay. Có những hình khắc con thú 4 chân. Có những hình tròn hay bầu dục có vết lõm ở giữa hay một vạch phân đôi. Phần lớn các hình khắc này được khắc lung tung, không tuân theo một trật tự nào.

Các nét khắc rộng, hẹp và nông, sâu khác nhau, chỗ rộng nhất tới 3cm, chỗ hẹp nhất 1cm, chỗ sâu nhất 1cm, chỗ nông chỉ 0,2cm. Những nét khắc này được khắc từ một dụng cụ cứng và có đầu nhọn sắc kiểu lưỡi đục hơn là mũi rìu, bởi vì phần nhiều chiều ngang vết khắc là ổn định trong kích thước 1,5cm và sâu 0,3cm.

< TS. Nguyễn Khắc Sử là người có nhiều năm gắn bó, nghiên cứu bãi đá cổ Pá Màng.

Điều đặc biệt là bản thân những đường khắc đó có tận dụng các đường nét tự nhiên của hòn đá như các lỗ lõm, các vết nứt tự nhiên để thể hiện đề tài”. Về nội dung hình khắc, có những hình thể hiện ý tưởng vô cùng phức tạp, kỳ dị, song có những hình khắc lại rất đơn giản, thô sơ.

Ở viên đá mà các nhà khoa học đặt tên theo thứ tự là hòn đá số 1 có hình khắc liên tục, trải dài từ thân bên này, vắt qua mặt rồi tràn xuống phần thân bên kia. Nhìn toàn thể, hình khắc đó giống con thú có một sừng, hai mắt, một tai. Tuy nhiên, khi hỏi ông Hâu, thì ông bảo, các cụ già người Thái cho rằng hình khắc đó thể hiện mình và đầu con rồng. Ngoài ra, nhìn vào phần thân “con rồng” thì lại thấy được hình tượng của dòng sông Đà đoạn từ xã Chiềng Bằng qua Liệp Tè với những khúc uốn lượn quanh co rất phù hợp.

Nhìn vào hình khắc này, ai cũng có thể có những liên tưởng nào đó, do vậy vấn đề này rất cần sự phân tích xác đáng của các nhà khoa học. Ở những hòn đá khác có rất nhiều hình học với đường nét không còn đối xứng chặt chẽ. Các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được nội dung những hình khắc kỳ lạ nhưng rất kỳ công này.

< Các nhà khoa học phải cắt một phần tảng đá có hình khắc vì tảng đá lớn quá, không thể vận chuyển về được.

TS. Nguyễn Khắc Sử đưa ra giả thiết rằng những hình khắc có thể là một thứ chữ cổ, dạng tượng hình. Bước đầu ông suy đoán những ký hiệu này có thể là chữ Thái cổ hoặc ký hiệu riêng của thầy mo khắc khi tiến hành nghi lễ ở đây từ thuở xưa. Niên đại của những hình khắc có nhiều khả năng rơi vào thời đại kim khí hơn là thời tiền sử.

Hệ thống chữ viết trên bãi đá cổ đã thể hiện rằng, chủ nhân của bãi đá có nền văn minh rực rỡ. Nhưng điều quan trọng, những hình khắc thể hiện người Việt cổ đã sống ở đây rất lâu, có thể cả vạn năm, chứ không phải di cư từ nơi khác đến cách nay vài trăm năm. Những hình khắc, họa tiết sắc nét trên những tảng đá siêu cứng khẳng định trình độ chế tác của cư dân nơi đây rất đáng nể. Nghiên cứu những hình khắc trên những tảng đá này, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm văn hóa cổ và tự hào hơn về nền văn hiến Việt cổ xưa.

Đã có một số nhà khoa học cắt rừng lội bộ vào Liệp Tè để nghiên cứu, song đều chưa giải nghĩa được các hình khắc kỳ cổ này. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, hình khắc trên những hòn đá cổ ở Pá Màng mang tích cách điệu nhiều hơn so với hình khắc trên bãi đá cổ Sapa.


< Những tảng đá chứa thông điệp của tổ tiên là vô giá.

Điều cần giải mã, là những hình khắc trên những hòn đá cổ có quan hệ thế nào với chủ nhân di chỉ khảo cổ Pá Màng? Đó là điều thú vị mà những nhà khảo cổ học cần dày tâm nghiên cứu.

Gần 10 năm trước, tôi kỳ công vào Pá Màng, với mong muốn được lần cuối cùng tận mắt, tận tay những thông điệp của tổ tiên, trước khi nó vĩnh viễn chìm dưới dòng nước bạc.

Thế nhưng, may mắn thay, những thông điệp quý báu của tổ tiên ta đã được các nhà nghiên cứu, được chính quyền ứng xử đúng mức. Dù không ít người dè bỉu rằng thật ngớ ngẩn khi bỏ ra bạc tỉ để khênh những tảng đá vô tri đó về thủy điện, nhưng với những người yêu tri thức cổ, thì giá trị của những thông điệp đó, không thể tính bằng tiền.

Korean Air! - Theo VTC New

Vị thần trên trời xuống tắm, rồi vẽ lại những hình thù trên tảng đá. Những hình vẽ đó sẽ mang lại những điều tốt lành cho người dân.

< Tác giả bên những tảng đá có hình khắc bí ẩn trưng bày ở thủy điện Sơn La.

Công trình thủy điện Sơn La hùng vĩ đã khánh thành. Các tuốc-bin đã hoạt động, sản sinh ra dòng điện lớn cho đất nước. Rất nhiều du khách lên Sơn La, đều muốn chiêm ngưỡng công trình hoành tráng này. Ngay con đường vào đập thủy điện, là khu nhà trưng bày những cổ vật khai quật dưới lòng hồ thủy điện. Giữa sân là những tảng đá lớn, mà phải quan sát kỹ, mới thấy những hình khắc.

< Tác giả bên tảng đá có hình khắc ở bản Pá Màng gần 10 năm trước, khi chưa được đưa về thủy điện Sơn La.

Nhìn những khối đá cổ chuyển từ bãi đá Pá Màng (xã Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) về đây, lòng tôi trào dâng cảm xúc. Cách đây gần 10 năm, tôi đã mất 2 ngày trời, vừa đi xe máy, đi bộ, đi thuyền, để được chiêm ngưỡng những tảng đá lúc chìm, lúc nổi bên sông Đà. Hành trình vất vả đó, chỉ với mong muốn được tận mắt những hình vẽ trên khối đá, trước khi nó biến mất vĩnh viễn dưới lòng hồ. Nhưng không ngờ, những tảng đá có hình khắc cổ xưa đã được khiêng về trưng bày ở ngay thủy điện Sơn La. Cảm giác được xem lại tác phẩm nghệ thuật của tổ tiên tưởng như sẽ biến mất thật khó tả.

< Mùa lũ, những tảng đá có hình khắc cổ lại chìm dưới lòng sông.

10 năm trước, con đường từ xã Chiềng Khoang (Quỳnh Nhai) vào xã Liệp Muội quanh co, dốc ngược, khủng khiếp như đường… lên giời. Từ Liệp Muội phải cuốc bộ suốt ngày trời mới vào được xã Nậm Ét. Con đường mòn bé xíu hun hút trong rừng thẳm. Cuốc bộ từ sáng sớm đến chiều tối mới ra đến bờ sông Đà. Ngủ đêm ở bến sông, rồi hôm sau thuê thuyền xuôi sông Đà 2 tiếng nữa mới đến trung tâm xã Liệp Tè. Chỉ có 2 cách duy nhất vào xã Liệp Tè là cuốc bộ xuyên rừng hoặc cưỡi thuyền vượt thác.

< Hình khắc trên tảng đá Pá Màng.

Trung tâm xã Liệp Tè là chỉ có 3 ngôi nhà, gồm trụ sở ủy ban, trường học và ngôi nhà nghỉ chân của người lái đò cùng khách đi đò. Chủ tịch xã Tòng Xuân Sáng cùng các vị lãnh đạo chẳng có việc gì làm, nên ngồi uống rượu từ trưa đến xế chiều. Bao năm nay, các cán bộ và nhân dân sống trong cảnh phấp phỏng chờ nước ngập.

Ông Sáng bảo, ngoài cán bộ khảo sát, thì có thêm các nhà khảo cổ cất công tìm vào Liệp Tè nghiên cứu, đào bới. Lần đầu tiên các vị cán bộ xã được đón… nhà báo. Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Lò Văn Sáy được phân công nhiệm vụ đưa nhà báo đi xem bãi đá cổ Pá Màng. Hóa ra, bãi đá Pá Màng nằm ngay mép sông, chỗ bến đò.

Ông Sáy bảo, ngay bãi sông, chỗ bến đò, các nhà khoa học đào được rất nhiều cổ vật. Năm 1996, người dân đào móng nhà, thu được vô số cổ vật bằng đá, bằng đồng, gốm. Những chiếc rìu, giáo, những lọ gốm cổ có đến hàng ngàn món. Dân đào đồ cổ thuê thuyền từ mãi Hòa Bình ngược lên đào bới, khuân đi vô số đồ cổ.

Những món đồ cổ bằng đá, đồng hiện vẫn có nhiều trong nhà dân. Các thầy mo, thầy cúng giữ rất nhiều đồ đồng, đồ đá. Họ coi đó là những vật thiêng tổ tiên để lại, nên cứ truyền từ đời trước đến đời sau cất giữ. Sau này, trao đổi với các nhà khoa học mới biết rằng, khu vực xã Pá Màng từng là một xưởng chế tác thủ công của người xưa. Theo lời ông Sáy, năm 1997, nghe tin phát hiện nhiều cổ vật ở Pá Màng, các nhà khảo cổ từ Hà Nội cũng đã đi thuyền ngược sông Đà lên đây căng dây, khoanh vùng, đào bới nhiều chỗ, mang về vô số cổ vật.

< Hòn đá khắc cổ được đánh số 1 bị vỡ mất một miếng. Hình khắc trên những hòn đá cổ vẫn là bí ẩn chưa được giải mã 

Nhóm nhà khảo cổ đó đến từ Viện Khảo cổ học Việt Nam. Là người trực tiếp khai quật, nghiên cứu về di chỉ Pá Màng, TS. Nguyễn Khắc Sử đánh giá về di chỉ này như sau: “Di chỉ khảo cổ Pá Màng là một di chỉ cư trú thềm sông có hai mức phát triển khác nhau.

Mức sớm nhất là lớp văn hóa nằm dưới độ sâu 1m, chứa công cụ cuội ghè đẽo, có thể trước văn hóa Hòa Bình, nhưng không hẳn là văn hoá Sơn Vi. Mức muộn hơn nằm ở bề mặt xuống đến 1m sâu chứa rất nhiều đồ gốm có khắc gạch, hoa văn cùng với bàn mài, thổ hoàng và sỉ đồng. Vì vậy, lớp văn hóa này thuộc sơ kỳ thời đại kim khí, cách ngày nay trên dưới 4.000 năm…”.

Cũng theo TS. Nguyễn Khắc Sử, việc phát hiện di chỉ Pá Màng đã chỉ ra sự phát triển sớm muộn của hai lớp cư dân trong cùng một di chỉ, trường hợp thật hiếm hoi ở miền Tây Bắc.

< Bãi đá Pá Màng mùa nước cạn.

Ông Sáy dẫn tôi ra mép sông Đà. Chúng tôi sắn quần lội bì bõm ra giữa sông. Ông Sáy chỉ mấy hòn đá nhô lên khỏi mặt nước và bảo đó chính là những hòn đá có hình khắc. Mùa lũ, nước sông Đà dâng cao, cuồn cuộn chảy, nhấn chìm những tảng đá này. Nhưng mùa khô, nước sông Đà cạn trơ đáy, tưởng như có thể lội qua sông được, thì những tảng đá có hình khắc nằm hẳn trên bãi sông. Những tảng đá đều sạch bong vì được nước sông rửa ráy mấy tháng trời.

Ông Sáy không biết ai khắc hình lên những tảng đá này. Tổ tiên ông Sáy cũng không biết. Nhưng đồng bào Thái nơi đây vẫn lưu giữ truyền thuyết về những tảng đá này. Người kể lại truyền thuyết về những tảng đá có hình khắc là cụ Lò Văn Hâu, là thầy mo uy tín của bản. Ông Hâu bảo rằng, những tảng đá đó là vật thiêng từ trên trời rơi xuống.

Ngày xưa, bãi sông Pá Màng có tới 40 tảng đá có hình khắc đen bóng nằm cạnh nhau. Vị thần trên trời xuống tắm, rồi vẽ lại những hình thù trên tảng đá. Những hình vẽ đó sẽ mang lại những điều tốt lành cho người dân.

< Những hòn đá có hình khắc bí ẩn được trưng bày ở thủy điện Sơn La.

Đồng bào Thái bản Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) không biết hình khắc trên những tảng đá nằm ven sông có từ bao giờ, nội dung ra sao. Họ tin rằng, những hình khắc đó là do vị thần trên trời xuống sông Đà tắm và để lại. Những hình khắc đó mang lại những điều tốt lành cho người dân.

Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Liệp Tè Lò Văn Sáy cho biết, người dân bản Pá Màng rất tin vào truyền thuyết đó, vì nó được kể bởi thầy mo Lò Văn Hâu. Cụ Hâu thường kể huyền thoại này vào những đêm trăng, hoặc những ngày cuối năm bên bếp lửa cho người trẻ nghe. Tuy nhiên, cụ Hâu đã chết cách nay hơn 20 năm. Theo ông Sáy, cụ thọ tới 120 tuổi. Người dân trong bản rất tin truyền thuyết này, vì đoạn sông Đà chảy qua địa phận bản Pá Màng rất dồi dào tôm cá. Theo lời ông Sáy, cụ Hâu chính là thợ săn cá giỏi nhất vùng.

Mùa lũ, nước từ thượng nguồn sông Đà phóng như tên bắn, gặp đoạn gấp khúc ở Pá Màng tạo thành dòng xoáy mạnh, đục ngàu. Những ngày lũ lớn, nước đục quánh bùn đất, khiến những loài cá yếu nổi trương bụng, nhao nhao lên mặt nước. Đồng bào ở Pá Màng chỉ việc mang vợt ra bãi sông xúc được hàng tạ cá.

Cụ Lò Văn Hâu chính là thợ săn cá chiên tài ba nhất vùng. Mùa nước cạn, nước sông Đà trong vắt. Vũng nước qua Pá Màng sâu hoắm, tới cả chục mét. Những con cá chiên khổng lồ, nặng tới 50-60kg lởn vởn như những bóng ma trong các vụng sâu, xoáy nước. Cụ Hâu cầm theo xiên nhảy ùm xuống vụng xoáy, tìm bọn cá chiên. Cụ đâm thật mạnh vào gáy cá. Chú cá chiên khổng lồ đau đớn, vùng vẫy, rồi nổi bụng chịu chết. Săn được cá chiên khổng lồ, cụ Hâu chia cho cả bản cùng ăn.

Ở Liệp Tè cũng có một số thợ săn cá chiên rất giỏi. Tuy nhiên, loài cá khổng lồ này ngày một hiếm, vả lại công việc này rất nguy hiểm, nên cả chục năm nay, không có ai lặn xuống đáy sông săn cá kiểu tay không nữa. Giờ thủy điện Sơn La ngập nước, Pá Màng và quá nửa xã Liệp Tè đã chìm dưới lòng hồ, nước tĩnh lặng, trong vắt. Loài cá khổng lồ ưa sống ở vùng nước chảy đã ngược lên phía thượng nguồn.

Quay lại chuyện những tảng đá khổng lồ có hình khắc bí ẩn bên bãi Pá Màng. Theo lời cụ Hâu, cách đây 100 năm, bãi Pá Màng có tới 40 hòn đá có hình khắc. Tuy nhiên, trong lần thám sát dọc sông Đà của các nhà khảo cổ vào năm 1977, thì bãi sông Pá Màng chỉ còn 18 hòn đá có hình khắc. Nhưng thời điểm cách nay gần 10 năm, tôi và ông Lò Văn Sáy đếm mãi, mà chỉ thấy còn 5 hòn đá có hình khắc.

< Liệu đây có phải chữ viết cổ của người Việt?

Theo lời ông Sáy, có thể một số tảng đá đã bị mất cắp! Một số hòn đá bị trôi mất, hoặc chìm sâu dưới lòng sông do những chiếc thuyền khai thác vàng ngày đêm moi cát đá dưới lòng sông lọc lấy bụi vàng.

Các hòn đá có tranh khắc hình chim muông, thú, cảnh vật, hình phụ nữ, bông hoa... Niên đại xuất hiện bãi đá cổ được xác định khoảng cuối thời kỳ đồ đá mới - sơ kỳ thời đại kim khí (cách đây từ 5.000 đến 7.000 năm). Những tảng đá có hình khắc vẫn còn tồn tại đến ngày nay vì chúng là những tảng đá lớn, có chân đế sâu, chắc chắn, không thể đào lên được. Những tảng đá nằm ở nơi sơn cùng thủy tận mà cũng bị con người phá hoại, thật tiếc biết bao.

TS. Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học) là người nghiên cứu kỹ lưỡng về những di chỉ khảo cổ trong lòng hồ thủy điện Sơn La. Ông cũng là người từng có nhiều thời gian nghiên cứu những hòn đá có hình khắc ở bãi đá Pá Màng. TS. Sử đã đo đạc tỉ mẩn, vẽ, dập tiêu bản và chụp lại chi tiết các hình khắc trên các hòn đá để nghiên cứu và làm công tác lưu trữ. Tuy nhiên, TS. Sử cũng chưa đưa ra lời giải mã nào về những hình khắc bí ẩn này. Ông mới chỉ dừng lại ở việc mô tả những hình vẽ cổ như sau:

< Những hình khắc mang tính cách điệu cao.

“Hều hết các vết khắc tập trung ở mặt phía Tây Bắc của hòn đá, tức là hướng ra phía sông Đà hoặc chính mặt quay lên trời. Các hình khắc chủ yếu được thể hiện bằng các đường tròn tiếp giáp nhau, hoặc được nối với nhau bằng một gạch nối có thể thẳng, có thể cong.

Có những hình gần như hình người gồm một hình tròn làm đầu, một vạch thẳng làm thân nối với hai chân choãi cong ở dưới. Hình vẽ không thể hiện tay. Có những hình khắc con thú 4 chân. Có những hình tròn hay bầu dục có vết lõm ở giữa hay một vạch phân đôi. Phần lớn các hình khắc này được khắc lung tung, không tuân theo một trật tự nào.

Các nét khắc rộng, hẹp và nông, sâu khác nhau, chỗ rộng nhất tới 3cm, chỗ hẹp nhất 1cm, chỗ sâu nhất 1cm, chỗ nông chỉ 0,2cm. Những nét khắc này được khắc từ một dụng cụ cứng và có đầu nhọn sắc kiểu lưỡi đục hơn là mũi rìu, bởi vì phần nhiều chiều ngang vết khắc là ổn định trong kích thước 1,5cm và sâu 0,3cm.

< TS. Nguyễn Khắc Sử là người có nhiều năm gắn bó, nghiên cứu bãi đá cổ Pá Màng.

Điều đặc biệt là bản thân những đường khắc đó có tận dụng các đường nét tự nhiên của hòn đá như các lỗ lõm, các vết nứt tự nhiên để thể hiện đề tài”. Về nội dung hình khắc, có những hình thể hiện ý tưởng vô cùng phức tạp, kỳ dị, song có những hình khắc lại rất đơn giản, thô sơ.

Ở viên đá mà các nhà khoa học đặt tên theo thứ tự là hòn đá số 1 có hình khắc liên tục, trải dài từ thân bên này, vắt qua mặt rồi tràn xuống phần thân bên kia. Nhìn toàn thể, hình khắc đó giống con thú có một sừng, hai mắt, một tai. Tuy nhiên, khi hỏi ông Hâu, thì ông bảo, các cụ già người Thái cho rằng hình khắc đó thể hiện mình và đầu con rồng. Ngoài ra, nhìn vào phần thân “con rồng” thì lại thấy được hình tượng của dòng sông Đà đoạn từ xã Chiềng Bằng qua Liệp Tè với những khúc uốn lượn quanh co rất phù hợp.

Nhìn vào hình khắc này, ai cũng có thể có những liên tưởng nào đó, do vậy vấn đề này rất cần sự phân tích xác đáng của các nhà khoa học. Ở những hòn đá khác có rất nhiều hình học với đường nét không còn đối xứng chặt chẽ. Các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được nội dung những hình khắc kỳ lạ nhưng rất kỳ công này.

< Các nhà khoa học phải cắt một phần tảng đá có hình khắc vì tảng đá lớn quá, không thể vận chuyển về được.

TS. Nguyễn Khắc Sử đưa ra giả thiết rằng những hình khắc có thể là một thứ chữ cổ, dạng tượng hình. Bước đầu ông suy đoán những ký hiệu này có thể là chữ Thái cổ hoặc ký hiệu riêng của thầy mo khắc khi tiến hành nghi lễ ở đây từ thuở xưa. Niên đại của những hình khắc có nhiều khả năng rơi vào thời đại kim khí hơn là thời tiền sử.

Hệ thống chữ viết trên bãi đá cổ đã thể hiện rằng, chủ nhân của bãi đá có nền văn minh rực rỡ. Nhưng điều quan trọng, những hình khắc thể hiện người Việt cổ đã sống ở đây rất lâu, có thể cả vạn năm, chứ không phải di cư từ nơi khác đến cách nay vài trăm năm. Những hình khắc, họa tiết sắc nét trên những tảng đá siêu cứng khẳng định trình độ chế tác của cư dân nơi đây rất đáng nể. Nghiên cứu những hình khắc trên những tảng đá này, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm văn hóa cổ và tự hào hơn về nền văn hiến Việt cổ xưa.

Đã có một số nhà khoa học cắt rừng lội bộ vào Liệp Tè để nghiên cứu, song đều chưa giải nghĩa được các hình khắc kỳ cổ này. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, hình khắc trên những hòn đá cổ ở Pá Màng mang tích cách điệu nhiều hơn so với hình khắc trên bãi đá cổ Sapa.


< Những tảng đá chứa thông điệp của tổ tiên là vô giá.

Điều cần giải mã, là những hình khắc trên những hòn đá cổ có quan hệ thế nào với chủ nhân di chỉ khảo cổ Pá Màng? Đó là điều thú vị mà những nhà khảo cổ học cần dày tâm nghiên cứu.

Gần 10 năm trước, tôi kỳ công vào Pá Màng, với mong muốn được lần cuối cùng tận mắt, tận tay những thông điệp của tổ tiên, trước khi nó vĩnh viễn chìm dưới dòng nước bạc.

Thế nhưng, may mắn thay, những thông điệp quý báu của tổ tiên ta đã được các nhà nghiên cứu, được chính quyền ứng xử đúng mức. Dù không ít người dè bỉu rằng thật ngớ ngẩn khi bỏ ra bạc tỉ để khênh những tảng đá vô tri đó về thủy điện, nhưng với những người yêu tri thức cổ, thì giá trị của những thông điệp đó, không thể tính bằng tiền.

Korean Air! - Theo VTC New

Trong rất nhiều dấu tích, di tích của người xưa để lại trên đất Quảng Trị, hệ thống khai thác và xử lý nước cổ ở xã Gio An còn lại khá nhiều và tương đối nguyên vẹn, lại rất độc đáo.

Hệ thống giếng cổ này bao gồm hơn 30 giếng, nằm rải rác hai bên đường 75 (Km 7,8), ở 5 thôn: An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn, Tân Văn thuộc địa phận xã Gio An, huyện Gio Linh; cách nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn khoảng 4 km về phía Đông Nam. Đây là một loại hình di tích độc nhất vô nhị, không chỉ của Quảng Trị mà còn đối với cả nước. Khẳng định những giá trị lịch sử, văn hoá đặc sắc của hệ thống di tích này và tạo cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy hiệu quả của nó, ngày 13/3/2001 Bộ Văn hoá – Thông tin đã quyết định công nhận là di tích Quốc gia.


< Giếng Đào ở thôn An Nha.

Đây là những công trình khai thác nước ngầm độc đáo của các thế hệ dân cư trên vùng gò đồi miền tây Gio Linh. Đặc điểm kỹ thuật nổi bật của hệ thống khai thác nước là các công trình đều xây dựng theo phương thức xếp kè, và đẻo bằng đá bazan mà dân địa phương gọi là đá ong, đá mồ côi. Về khái quát, có thể phân hệ thống khai thác nước ở Gio An tập trung 3 loại chính sau:

Loại thứ nhất: Là loại có cấu trúc hoàn chỉnh nhất. Người ta dựa vào những mạch nước ngầm chảy ra ở triền đồi rồi dùng đá xếp ngăn lại ở xung quang tạo nên một bể lắng (bể hứng). Phía dưới bể hứng còn có một bể nữa gọi là bể chứa. Nước từ bể lắng chảy xuống bể chứa qua một bãi tràn có đặt các miếng đá, máng đá này được chế tác từ đá bazan dạng nữa hình trụ bổ dọc, dài từ 1,3 – 1,5m, mặt trên có một đường rãnh chạy dọc dài theo thân để dẫn nước.


< Giếng Gái ở thôn Hảo Sơn.

Bể chứa hình tròn hoặc hình bầu dục được xếp đá xung quanh, phía ngoài có các đường cho nước thoát ra chảy vào các con mương. Bể chứa thường sâu từ 1 - 2m, rộng từ 15 – 30m2 . Đây vừa là nơi lấy nước sinh hoạt phục vụ ăn uống, vừa là nơi tắm giặt của con người. Ngoài ra còn có các kênh mương dẫn nước được kè đá hoặc đắp bằng đất chạy ngoằn nghèo, có nhiệm vụ nhận nước trực tiếp từ bể chứa rồi dẫn ra ruộng. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là: Giếng Đào, giếng Trạng (An Nha), giếng Côi, giếng Kình (An Hướng), giếng Máng (Long Sơn), giếng Gái (Hảo Sơn).

Loại thứ hai: Là giếng không có bể lắng, không có máng dẫn mà thường là các bể chứa nhận trực tiếp nước từ những mội nước (mạch ngầm) phun nổi có lưu lượng dòng chảy mạnh. Phía ngoài có cửa thoát nước ra mương dẫn hay chảy ra ruộng. Loại công trình này do chỉ có một bể chứa nên tất cả các sinh hoạt đều diễn ra trong lòng bể. Vì thế, để giữ vệ sinh người ta rãi một số khối đá chắn ngang 1/3 bể phía trong với mục đích tạo ra một đường ranh giới quy ước, từ đó phần bên trong chỉ dành lấy nước ăn, phần bên ngoài là nơi tắm giặt. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là giếng Ông, giếng Tép (Hảo Sơn), giếng Nậy (Thanh Khê).


< Giếng Ông ở thôn Hảo Sơn.

Loại thứ ba: Giếng hình dáng giống giếng khơi cổ truyền ở vùng đồng bằng của người Việt, bằng cách thả “bi giếng” xuống nơi có mạch nước ngầm tạo thành vách từ dưới đáy lên khỏi mặt đất, các bi giếng là một khối đá nguyên, hình trụ tròn, mặt ngoài khum, dạng hình tang trống cao chừng 0,4m, đường kính 0,5m, dày 0,1m. Nền được xếp các phiến đá ong ghè đẻo sắc sảo. Mặc dù có sự khác biệt về cấu trúc đối với hai loại trên nhưng nó vẫn giữ nguyên tắc khai thác nước ngầm.

Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khảo cổ trong và ngoài nước quan tâm đến các công trình dẫn thuỷ cổ này như: M.colain, Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung, Lê Duy Sơn, … Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, chủ nhân, niên đại, … song giới nghiên cứu đều công nhận đây là những sản phẩm văn hoá được hình thành bởi sự sáng tạo tuyệt vời của con người từ rất xa xưa.


< Giếng Pheo ở thôn Tân Văn.

Hệ thống dẫn thủy cổ Gio An là là một loại hình di tích độc đáo của Quảng Trị và cả nước, có giá trị về lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật và cả sinh thái. Từ người bản địa cổ đến người Việt Nam sau này hệ thống dẫn thuỷ cổ Gio An vẫn tồn tại với thời gian, vừa là những di tích có giá trị vừa mang chức năng sử dụng, trở thành một trong những sản phẩm văn hoá đặc sắc, độc đáo, thể hiện lối ứng xử khôn khéo, thông minh của con người trước tự nhiên để phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nó vừa là sản phẩm vừa là đặc trưng của cư dân nông nghiệp, phản chiếu sự kế thừa giữa các thế hệ dân cư nơi đây.

Tuy nhiên do đặc thù của di tích này cùng một lúc tồn tại song song hai giá trị: Di tích – Sử dụng, cho nên giải quyết hài hoà vấn đề giữ gìn di sản và vấn đề sử dụng để lấy nước, phát triển cây rau liệt (là một loại rau chỉ trồng được ở nơi này, cho hiệu quả kinh tế cao) không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương mà đòi hỏi sự góp sức, tự giác của toàn dân và các tổ chức xã hội. Đây là một di tích lịch sử - văn hoá cần được đầu tư, khai thác du lịch.

Korean Air! - Theo Nguyễn Duy Hùng (Dulich.Quangtri)

Người dân tỉnh Quảng Trị, đặc biệt là những bô lão cho rằng nước giếng cổ đem lại hơi thở cho dân làng. Đặc biệt, rượu làng Gio An là loại rượu nổi tiếng ngon, thơm... Tất cả là nhờ có nước giếng cổ. Người già các làng trên khẳng định, sau nhiều lần thử nghiệm, khi công đoạn lên men rượu, công đoạn vào nước để nấu ra rượu thì nước giếng cổ là loại nước cho ra loại rượu độc đáo nhất về độ ngon mà chưa có loại nước nào (như nước giếng thường, nước máy) có thể thay thế được.

Không chỉ dừng lại ở việc tạo ra loại rượu ngon, người dân các làng có giếng cổ nói, để trồng được loại xà lách song thì phải tìm đến những vùng có mạch nguồn của nước giếng cổ chảy ra để trồng. Còn nếu trông loại rau này ở các vùng khác thì chất lượng cũng như màu sắc không thể nào sánh được với loại rau trồng ở nguồn nước giếng cổ

Trong rất nhiều dấu tích, di tích của người xưa để lại trên đất Quảng Trị, hệ thống khai thác và xử lý nước cổ ở xã Gio An còn lại khá nhiều và tương đối nguyên vẹn, lại rất độc đáo.

Hệ thống giếng cổ này bao gồm hơn 30 giếng, nằm rải rác hai bên đường 75 (Km 7,8), ở 5 thôn: An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn, Tân Văn thuộc địa phận xã Gio An, huyện Gio Linh; cách nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn khoảng 4 km về phía Đông Nam. Đây là một loại hình di tích độc nhất vô nhị, không chỉ của Quảng Trị mà còn đối với cả nước. Khẳng định những giá trị lịch sử, văn hoá đặc sắc của hệ thống di tích này và tạo cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy hiệu quả của nó, ngày 13/3/2001 Bộ Văn hoá – Thông tin đã quyết định công nhận là di tích Quốc gia.


< Giếng Đào ở thôn An Nha.

Đây là những công trình khai thác nước ngầm độc đáo của các thế hệ dân cư trên vùng gò đồi miền tây Gio Linh. Đặc điểm kỹ thuật nổi bật của hệ thống khai thác nước là các công trình đều xây dựng theo phương thức xếp kè, và đẻo bằng đá bazan mà dân địa phương gọi là đá ong, đá mồ côi. Về khái quát, có thể phân hệ thống khai thác nước ở Gio An tập trung 3 loại chính sau:

Loại thứ nhất: Là loại có cấu trúc hoàn chỉnh nhất. Người ta dựa vào những mạch nước ngầm chảy ra ở triền đồi rồi dùng đá xếp ngăn lại ở xung quang tạo nên một bể lắng (bể hứng). Phía dưới bể hứng còn có một bể nữa gọi là bể chứa. Nước từ bể lắng chảy xuống bể chứa qua một bãi tràn có đặt các miếng đá, máng đá này được chế tác từ đá bazan dạng nữa hình trụ bổ dọc, dài từ 1,3 – 1,5m, mặt trên có một đường rãnh chạy dọc dài theo thân để dẫn nước.


< Giếng Gái ở thôn Hảo Sơn.

Bể chứa hình tròn hoặc hình bầu dục được xếp đá xung quanh, phía ngoài có các đường cho nước thoát ra chảy vào các con mương. Bể chứa thường sâu từ 1 - 2m, rộng từ 15 – 30m2 . Đây vừa là nơi lấy nước sinh hoạt phục vụ ăn uống, vừa là nơi tắm giặt của con người. Ngoài ra còn có các kênh mương dẫn nước được kè đá hoặc đắp bằng đất chạy ngoằn nghèo, có nhiệm vụ nhận nước trực tiếp từ bể chứa rồi dẫn ra ruộng. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là: Giếng Đào, giếng Trạng (An Nha), giếng Côi, giếng Kình (An Hướng), giếng Máng (Long Sơn), giếng Gái (Hảo Sơn).

Loại thứ hai: Là giếng không có bể lắng, không có máng dẫn mà thường là các bể chứa nhận trực tiếp nước từ những mội nước (mạch ngầm) phun nổi có lưu lượng dòng chảy mạnh. Phía ngoài có cửa thoát nước ra mương dẫn hay chảy ra ruộng. Loại công trình này do chỉ có một bể chứa nên tất cả các sinh hoạt đều diễn ra trong lòng bể. Vì thế, để giữ vệ sinh người ta rãi một số khối đá chắn ngang 1/3 bể phía trong với mục đích tạo ra một đường ranh giới quy ước, từ đó phần bên trong chỉ dành lấy nước ăn, phần bên ngoài là nơi tắm giặt. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là giếng Ông, giếng Tép (Hảo Sơn), giếng Nậy (Thanh Khê).


< Giếng Ông ở thôn Hảo Sơn.

Loại thứ ba: Giếng hình dáng giống giếng khơi cổ truyền ở vùng đồng bằng của người Việt, bằng cách thả “bi giếng” xuống nơi có mạch nước ngầm tạo thành vách từ dưới đáy lên khỏi mặt đất, các bi giếng là một khối đá nguyên, hình trụ tròn, mặt ngoài khum, dạng hình tang trống cao chừng 0,4m, đường kính 0,5m, dày 0,1m. Nền được xếp các phiến đá ong ghè đẻo sắc sảo. Mặc dù có sự khác biệt về cấu trúc đối với hai loại trên nhưng nó vẫn giữ nguyên tắc khai thác nước ngầm.

Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khảo cổ trong và ngoài nước quan tâm đến các công trình dẫn thuỷ cổ này như: M.colain, Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung, Lê Duy Sơn, … Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, chủ nhân, niên đại, … song giới nghiên cứu đều công nhận đây là những sản phẩm văn hoá được hình thành bởi sự sáng tạo tuyệt vời của con người từ rất xa xưa.


< Giếng Pheo ở thôn Tân Văn.

Hệ thống dẫn thủy cổ Gio An là là một loại hình di tích độc đáo của Quảng Trị và cả nước, có giá trị về lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật và cả sinh thái. Từ người bản địa cổ đến người Việt Nam sau này hệ thống dẫn thuỷ cổ Gio An vẫn tồn tại với thời gian, vừa là những di tích có giá trị vừa mang chức năng sử dụng, trở thành một trong những sản phẩm văn hoá đặc sắc, độc đáo, thể hiện lối ứng xử khôn khéo, thông minh của con người trước tự nhiên để phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nó vừa là sản phẩm vừa là đặc trưng của cư dân nông nghiệp, phản chiếu sự kế thừa giữa các thế hệ dân cư nơi đây.

Tuy nhiên do đặc thù của di tích này cùng một lúc tồn tại song song hai giá trị: Di tích – Sử dụng, cho nên giải quyết hài hoà vấn đề giữ gìn di sản và vấn đề sử dụng để lấy nước, phát triển cây rau liệt (là một loại rau chỉ trồng được ở nơi này, cho hiệu quả kinh tế cao) không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương mà đòi hỏi sự góp sức, tự giác của toàn dân và các tổ chức xã hội. Đây là một di tích lịch sử - văn hoá cần được đầu tư, khai thác du lịch.

Korean Air! - Theo Nguyễn Duy Hùng (Dulich.Quangtri)

Người dân tỉnh Quảng Trị, đặc biệt là những bô lão cho rằng nước giếng cổ đem lại hơi thở cho dân làng. Đặc biệt, rượu làng Gio An là loại rượu nổi tiếng ngon, thơm... Tất cả là nhờ có nước giếng cổ. Người già các làng trên khẳng định, sau nhiều lần thử nghiệm, khi công đoạn lên men rượu, công đoạn vào nước để nấu ra rượu thì nước giếng cổ là loại nước cho ra loại rượu độc đáo nhất về độ ngon mà chưa có loại nước nào (như nước giếng thường, nước máy) có thể thay thế được.

Không chỉ dừng lại ở việc tạo ra loại rượu ngon, người dân các làng có giếng cổ nói, để trồng được loại xà lách song thì phải tìm đến những vùng có mạch nguồn của nước giếng cổ chảy ra để trồng. Còn nếu trông loại rau này ở các vùng khác thì chất lượng cũng như màu sắc không thể nào sánh được với loại rau trồng ở nguồn nước giếng cổ

Bên bờ sông Đốc Vàng Thượng thuộc ấp Nam, xã Tân Thạnh, H.Thanh Bình,  Đồng Tháp, có một ngôi đền gọi là Dinh ông Đốc Vàng, hằng năm đến ngày 15, 16 tháng 2 âm lịch, đồng bào đến lễ bái tấp nập.

< Dinh Đốc Binh Vàng ngày nay.

Dinh hiện nay được trùng tu khá quy mô, cổng chính hướng về phía quốc lộ 30, biển ghi: “Đền thờ thượng tướng quận công Trần Văn Năng”, hai bên có câu đối viết bằng chữ quốc ngữ chân phương: “Trần Ngọc trinh trung thiên cổ tại/Thượng tướng oai linh vạn thế tồn”.

Sự tích

Người địa phương lưu truyền rằng: Khoảng hơn trăm năm trước, khi phá hoang vùng ven vàm rạch Đốc Vàng, người dân phát hiện một ngôi miếu cổ đổ nát, trong đó có thờ bài vị “Trần Ngọc Thượng tướng Quận công”.  Ngôi miếu được xác tín là thờ ông Đốc binh Vàng, người có công đánh giặc Xiêm ở sông Cổ Hủ, Vàm Nao dưới triều Minh Mạng. Khi nghe tin thành Châu Đốc thất thủ, ông đã đốt thuyền lương và tự tử tại đây để lương phạn không rơi vào tay giặc. Vua thương tiếc phong tặng tước quận công, dân làng lập miếu thờ. Từ đó, vàm rạch nơi ông qua đời được gọi là Đốc Vàng. Về sau dân trong vùng rủ nhau xây lại miếu.

Truyền thuyết dân gian cũng kể, do ở chỗ khúc cong, nước xoáy mạnh đất lở dần, ngôi miếu có nguy cơ sụp xuống dòng sông. Người dân bàn nhau định dời ngôi miếu. Bấy giờ trong ban tế tự có người nằm mộng thấy ông hiện về bảo dân làng cứ để yên miếu ở chỗ cũ. Lạ thay, thời gian sau, dòng chảy sông Đốc Vàng bỗng đổi hướng, chỗ ngôi miếu chẳng những không còn lở nữa mà mỗi năm cứ bồi thêm ra. Từ sự hiển linh đó, người dân trong vùng tôn ngôi miếu với danh xưng trang trọng hơn là Dinh ông Đốc Vàng.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu (Hội Khoa học lịch sử Đồng Tháp) cho biết, căn cứ vào bài vị nêu trên thì chính xác ngôi miếu cổ xưa (sau được gọi là Dinh ông Đốc Vàng) là nơi thờ Lương tài hầu Trần Văn Năng. Còn Đốc Vàng hay Đốc binh Vàng là một nhân vật gắn liền với huyền tích khác.

Vị quan tài giỏi

Theo sách Đại Nam liệt truyện, Trần Văn Năng người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa, có sức vóc, giỏi võ nghệ, quy thuận chúa Nguyễn rất sớm và lập nhiều công to, được thăng chức Vệ úy, rồi đến chức Đô thống chế... Công trạng của ông được Đại Nam thực lục ghi chép tỉ mỉ. Trong đó, có việc xây dựng Từ Thọ cung dưới triều Minh Mạng năm 1822 và cùng Thoại Ngọc Hầu tổ chức, mộ dân đào kinh Vĩnh Tế... Năm 1833, ông được thăng Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, năm sau được tấn phong Lương tài hầu. Ông là một trong những vị quan nhiều lần được vua ban thưởng.

Năm Minh Mệnh thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), vào lúc tiết đông giá rét, vua làm lễ Đông hưởng. Tế xong, vua thưởng bạc, lụa và một đồng kim tiền Phi long nhỏ cho Trần Văn Năng và các quan đã 70 tuổi. Riêng quan Lương tài hầu Trần Văn Năng còn được vua ban một áo cẩm bào màu tía và bảo: “Gặp tiết đông giá rét, nghĩ khanh tuổi già, ta đặc cách ban cho áo này, để chống rét dữ”. Tháng 6.1833, quân Lê Văn Khôi từ Phiên An đánh lấn ra các tỉnh Nam kỳ và chiếm được Định Tường. Mặc dù tuối đã cao, nhưng Trần Văn Năng vẫn được vua Minh Mạng phong làm Bình khấu Tướng quân cùng Hiệp biện đại học sĩ Lê Đăng Doanh và Vũ lâm dinh Tả dực Thống chế Nguyễn Văn Trọng làm Tham tán đại thần... dẫn binh đi dẹp loạn. Dịp này vua còn ban mỗi người một thanh gươm vàng.

Do Lê Văn Khôi cầu viện, tháng 11 năm Quý Tỵ (1833), quân Xiêm kéo đại binh chia làm 2 đường vào lấn cướp nước ta. An Giang Hà Tiên bị thất thủ. Đồn Châu Đốc bị giặc uy hiếp. Sau nhiều trận giằng co, Bình Khấu tướng quân cùng các tham tán Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân, Hồ Văn Khuê... đã thống lĩnh quân giáng cho giặc một đòn nặng ở Cổ Hủ và Thuận Cảng (Vàm Nao). Biết trước quân Xiêm sẽ dùng hỏa công, quân ta liền thu hết các chiến thuyền về đậu ở hai bên bờ sông. “Giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng hỏa đốt thuyền của ta, rồi đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh”.

Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc quân đánh bắn, từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều. Thủy quân ta thuyền chiến nối nhau, lửa ở giữa sông không cháy lan lên được hai bên bờ. Khi bè lửa trôi qua rồi, quân ta thủy bộ đánh giáp lá cà. Quân Xiêm thua to. Trận đánh này có thể sánh ngang với trận Rạch Gầm - Xoài Mút trên đất Mỹ Tho năm 1785. Từ chiến thắng Cổ Hủ, Bình Khấu, tướng quân Trần Văn Năng cùng các quan quân truy kích chiếm lại Hà Tiên và Châu Đốc. Đẩy lui quân Xiêm về đất Chân Lạp, quân ta đuổi theo tới Nam Vang. Đến đây Bình khấu Tướng quân lâm trọng bệnh, bèn giao binh quyền lại cho Trương Minh Giảng, rồi theo đường thủy về nước. Nhưng thuyền đến Bến Siêu thì ông qua đời, thọ 72 tuổi.

Bấy giờ, vua Minh Mạng hay tin tiếc thương vô hạn, bèn dụ truyền tổ chức tang lễ trọng thể. Ông Nguyễn Hữu Hiếu, người có công đi tìm lai lịch ngôi đền cho biết, mộ Lương Thành hầu hiện tọa lạc trên triền núi Hoàng Long thuộc thôn Thượng II, xã Thượng Xuân, TP.Huế.  Tuy nhiên, không hiểu sao lại không được chôn cất theo điển lệ dành cho quan đại thần mà chỉ là một ngôi mộ đất bình thường.

Korean Air! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (báo Thanhnien), internet

Bên bờ sông Đốc Vàng Thượng thuộc ấp Nam, xã Tân Thạnh, H.Thanh Bình,  Đồng Tháp, có một ngôi đền gọi là Dinh ông Đốc Vàng, hằng năm đến ngày 15, 16 tháng 2 âm lịch, đồng bào đến lễ bái tấp nập.

< Dinh Đốc Binh Vàng ngày nay.

Dinh hiện nay được trùng tu khá quy mô, cổng chính hướng về phía quốc lộ 30, biển ghi: “Đền thờ thượng tướng quận công Trần Văn Năng”, hai bên có câu đối viết bằng chữ quốc ngữ chân phương: “Trần Ngọc trinh trung thiên cổ tại/Thượng tướng oai linh vạn thế tồn”.

Sự tích

Người địa phương lưu truyền rằng: Khoảng hơn trăm năm trước, khi phá hoang vùng ven vàm rạch Đốc Vàng, người dân phát hiện một ngôi miếu cổ đổ nát, trong đó có thờ bài vị “Trần Ngọc Thượng tướng Quận công”.  Ngôi miếu được xác tín là thờ ông Đốc binh Vàng, người có công đánh giặc Xiêm ở sông Cổ Hủ, Vàm Nao dưới triều Minh Mạng. Khi nghe tin thành Châu Đốc thất thủ, ông đã đốt thuyền lương và tự tử tại đây để lương phạn không rơi vào tay giặc. Vua thương tiếc phong tặng tước quận công, dân làng lập miếu thờ. Từ đó, vàm rạch nơi ông qua đời được gọi là Đốc Vàng. Về sau dân trong vùng rủ nhau xây lại miếu.

Truyền thuyết dân gian cũng kể, do ở chỗ khúc cong, nước xoáy mạnh đất lở dần, ngôi miếu có nguy cơ sụp xuống dòng sông. Người dân bàn nhau định dời ngôi miếu. Bấy giờ trong ban tế tự có người nằm mộng thấy ông hiện về bảo dân làng cứ để yên miếu ở chỗ cũ. Lạ thay, thời gian sau, dòng chảy sông Đốc Vàng bỗng đổi hướng, chỗ ngôi miếu chẳng những không còn lở nữa mà mỗi năm cứ bồi thêm ra. Từ sự hiển linh đó, người dân trong vùng tôn ngôi miếu với danh xưng trang trọng hơn là Dinh ông Đốc Vàng.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu (Hội Khoa học lịch sử Đồng Tháp) cho biết, căn cứ vào bài vị nêu trên thì chính xác ngôi miếu cổ xưa (sau được gọi là Dinh ông Đốc Vàng) là nơi thờ Lương tài hầu Trần Văn Năng. Còn Đốc Vàng hay Đốc binh Vàng là một nhân vật gắn liền với huyền tích khác.

Vị quan tài giỏi

Theo sách Đại Nam liệt truyện, Trần Văn Năng người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa, có sức vóc, giỏi võ nghệ, quy thuận chúa Nguyễn rất sớm và lập nhiều công to, được thăng chức Vệ úy, rồi đến chức Đô thống chế... Công trạng của ông được Đại Nam thực lục ghi chép tỉ mỉ. Trong đó, có việc xây dựng Từ Thọ cung dưới triều Minh Mạng năm 1822 và cùng Thoại Ngọc Hầu tổ chức, mộ dân đào kinh Vĩnh Tế... Năm 1833, ông được thăng Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, năm sau được tấn phong Lương tài hầu. Ông là một trong những vị quan nhiều lần được vua ban thưởng.

Năm Minh Mệnh thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), vào lúc tiết đông giá rét, vua làm lễ Đông hưởng. Tế xong, vua thưởng bạc, lụa và một đồng kim tiền Phi long nhỏ cho Trần Văn Năng và các quan đã 70 tuổi. Riêng quan Lương tài hầu Trần Văn Năng còn được vua ban một áo cẩm bào màu tía và bảo: “Gặp tiết đông giá rét, nghĩ khanh tuổi già, ta đặc cách ban cho áo này, để chống rét dữ”. Tháng 6.1833, quân Lê Văn Khôi từ Phiên An đánh lấn ra các tỉnh Nam kỳ và chiếm được Định Tường. Mặc dù tuối đã cao, nhưng Trần Văn Năng vẫn được vua Minh Mạng phong làm Bình khấu Tướng quân cùng Hiệp biện đại học sĩ Lê Đăng Doanh và Vũ lâm dinh Tả dực Thống chế Nguyễn Văn Trọng làm Tham tán đại thần... dẫn binh đi dẹp loạn. Dịp này vua còn ban mỗi người một thanh gươm vàng.

Do Lê Văn Khôi cầu viện, tháng 11 năm Quý Tỵ (1833), quân Xiêm kéo đại binh chia làm 2 đường vào lấn cướp nước ta. An Giang Hà Tiên bị thất thủ. Đồn Châu Đốc bị giặc uy hiếp. Sau nhiều trận giằng co, Bình Khấu tướng quân cùng các tham tán Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân, Hồ Văn Khuê... đã thống lĩnh quân giáng cho giặc một đòn nặng ở Cổ Hủ và Thuận Cảng (Vàm Nao). Biết trước quân Xiêm sẽ dùng hỏa công, quân ta liền thu hết các chiến thuyền về đậu ở hai bên bờ sông. “Giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng hỏa đốt thuyền của ta, rồi đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh”.

Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc quân đánh bắn, từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều. Thủy quân ta thuyền chiến nối nhau, lửa ở giữa sông không cháy lan lên được hai bên bờ. Khi bè lửa trôi qua rồi, quân ta thủy bộ đánh giáp lá cà. Quân Xiêm thua to. Trận đánh này có thể sánh ngang với trận Rạch Gầm - Xoài Mút trên đất Mỹ Tho năm 1785. Từ chiến thắng Cổ Hủ, Bình Khấu, tướng quân Trần Văn Năng cùng các quan quân truy kích chiếm lại Hà Tiên và Châu Đốc. Đẩy lui quân Xiêm về đất Chân Lạp, quân ta đuổi theo tới Nam Vang. Đến đây Bình khấu Tướng quân lâm trọng bệnh, bèn giao binh quyền lại cho Trương Minh Giảng, rồi theo đường thủy về nước. Nhưng thuyền đến Bến Siêu thì ông qua đời, thọ 72 tuổi.

Bấy giờ, vua Minh Mạng hay tin tiếc thương vô hạn, bèn dụ truyền tổ chức tang lễ trọng thể. Ông Nguyễn Hữu Hiếu, người có công đi tìm lai lịch ngôi đền cho biết, mộ Lương Thành hầu hiện tọa lạc trên triền núi Hoàng Long thuộc thôn Thượng II, xã Thượng Xuân, TP.Huế.  Tuy nhiên, không hiểu sao lại không được chôn cất theo điển lệ dành cho quan đại thần mà chỉ là một ngôi mộ đất bình thường.

Korean Air! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (báo Thanhnien), internet

Nằm bên bờ sông Tiền, thuộc thị xã Sa Đéc, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê là điểm đến thu hút đông đảo du khách mỗi khi ghé thăm tỉnh Đồng Tháp.

< Du khách nước ngoài đến tham quan nhà cổ Huỳnh Thủy Lê.

Nét đặc biệt của ngôi nhà cổ này là sự giao thoa kiến trúc Việt - Pháp - Hoa cùng câu chuyện tình lãng mạn giữa nữ văn hào Pháp Marguerite Duras với công tử họ Huỳnh.
Khi chúng tôi đến đây, đoàn du khách Úc hơn 40 người đang chăm chú ngồi nghe cô hướng dẫn viên của Công ty Cổ phần Du lịch Đồng Tháp giới thiệu về ngôi nhà và chuyện tình giữa nữ văn hào Pháp Marguerite Duras và ông Huỳnh Thủy Lê. Cái không khí sầm uất ở khu phố Sa Đéc dọc bờ sông Tiền trong buổi chiều muộn càng làm cho du khách cảm nhận được cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp ngày nào.

< Hoa văn, họa tiết, phù điêu trên cột và vòm hiên của ngôi nhà rất độc đáo và hài hòa.

Ngôi nhà cổ này được xây dựng năm 1895 bằng vật liệu chính là gỗ. Mái nhà lợp ngói âm dương, hai bên đầu cong vút hình chiếc thuyền, tượng trưng cho miền sông nước Tây Nam Bộ. Năm 1917, ông Huỳnh Cẩm Thuận (cha ông Huỳnh Thủy Lê) cho trùng tu lại ngôi nhà mang dáng dấp một biệt thự Pháp, kết hợp hài hòa giữa hai lối kiến trúc Đông - Tây. Từ đó đến nay, mặc dù đã hơn 100 năm nhưng ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn.

< Một số vật dụng lưu giữ trong ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê.

Ngôi nhà là một công trình kiến trúc khác lạ. Phía ngoài ấn tượng với lối kiến trúc Pháp qua các chi tiết mặt tiền, trần nhà, khung cửa sổ. Những bức tượng, phù điêu đắp nổi được trang trí theo kiểu Phục hưng. Vòm cửa cong vòng theo lối kiến trúc La Mã, cửa sổ với khối kính nhiều màu kiểu Gothic đón ánh sáng. Nhìn từ ngoài vào ngôi nhà, du khách thấy sự uy nghiêm, bề thế, cho thấy gia chủ là người rất giàu có và uy quyền.

Nhưng, vào trong ngôi nhà, du khách lại có cảm giác yên bình và thân thuộc. Lối kiến trúc phương Đông thể hiện sự mềm mại qua những đường nét chạm khắc tinh xảo, cầu kỳ hình chim muông, cây trái, tùng, cúc, trúc, mai... trên gỗ quý.

Điều đặc biệt là các họa tiết đó lại khắc họa cảnh sông nước Nam bộ sầm uất, cây trái xanh tươi, tượng trưng cho vùng đất trù phú. Ngôi nhà được chia thành 3 gian, gian giữa thờ Quan Công theo văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người Hoa.


< Bên trong ngôi nhà, lối kiến trúc phương Đông thể hiện qua những đường nét chạm khắc tinh xảo, cầu kỳ.

Hai gian hai bên là nơi tiếp khách cùng hai phòng ngủ, một hành lang rộng dẫn xuống nhà dưới. Nền nhà cao ráo, lát gạch hoa, tường xây bằng gạch đặc dày 30cm - 40cm, bao lấy kết cấu khung gỗ, làm tăng khả năng chịu lực. Tất cả vật liệu này đều được mang từ Pháp về để xây dựng.

Ngôi nhà này là nơi đây bắt đầu cho một câu chuyện tình giữa gia chủ và nữ văn hào Pháp Marguerite Duras. Cuối năm 1929, trên chuyến phà Mỹ Thuận chạy ngang sông Tiền, ông Huỳnh Thủy Lê thấy một giai nhân nổi bật có nước da trắng, tóc nâu vàng, dáng người cao ráo, đứng lơ đễnh trên phà nhìn những đám lục bình trôi tản mạn trên sông.

< Du khách nước ngoài nghe kể về lịch sử ngôi nhà.

Ông đã chủ động đến làm quen với cô gái bằng tiếng Pháp và cả hai đều trúng“tiếng sét ái tình”. Tình yêu ấy kéo dài gần hai năm trong bí mật và kết thúc trong nước mắt khi ông Huỳnh Thủy Lê phải cưới một cô gái đã được cha ông an bài từ trước. Nhìn tình nhân cưới người khác, Marguerite Duras đau khổ tột độ, quyết định cùng gia đình lên tàu trở về nước Pháp.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Marguerite Duras vẫn ôm nặng mối tình ấy. Trong dòng hồi tưởng, nữ văn sĩ đã viết nên tiểu thuyết “Người tình” (tên tiếng Pháp là L’amant, xuất bản năm 1984) để kể về cuộc tình trắc trở của bà. Đến nay, tiểu thuyết “Người tình” được dịch ra hơn 40 thứ tiếng. Năm 1992, đạo diễn người Pháp Jean Jacques Annaud cho ra đời bộ phim cùng tên dựa theo tiểu thuyết của bà. Bộ phim công chiếu đã nhận được nhiều sự tán thưởng của khán giả khắp nơi trên thế giới.

< Hướng dẫn viên kể về câu chuyện tình đẹp và lãng mạn giữa nữ văn hào Pháp Marguerite Duras và ông Huỳnh Thủy Lê.

Tiểu thuyết “Người tình” và bộ phim cùng tên ngày càng nổi tiếng thì nhà cổ Huỳnh Thủy Lê lại càng được du khách năm châu quan tâm, tìm hiểu. Rất nhiều đoàn khách nước ngoài từ Pháp, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh… đã đến đây và rất thích thú. Năm 2009, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia.

Vé máy bay đi los angeles! - Theo Nguyễn Oanh - Lê Minh (Vnanet.vn)

Nằm bên bờ sông Tiền, thuộc thị xã Sa Đéc, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê là điểm đến thu hút đông đảo du khách mỗi khi ghé thăm tỉnh Đồng Tháp.

< Du khách nước ngoài đến tham quan nhà cổ Huỳnh Thủy Lê.

Nét đặc biệt của ngôi nhà cổ này là sự giao thoa kiến trúc Việt - Pháp - Hoa cùng câu chuyện tình lãng mạn giữa nữ văn hào Pháp Marguerite Duras với công tử họ Huỳnh.
Khi chúng tôi đến đây, đoàn du khách Úc hơn 40 người đang chăm chú ngồi nghe cô hướng dẫn viên của Công ty Cổ phần Du lịch Đồng Tháp giới thiệu về ngôi nhà và chuyện tình giữa nữ văn hào Pháp Marguerite Duras và ông Huỳnh Thủy Lê. Cái không khí sầm uất ở khu phố Sa Đéc dọc bờ sông Tiền trong buổi chiều muộn càng làm cho du khách cảm nhận được cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp ngày nào.

< Hoa văn, họa tiết, phù điêu trên cột và vòm hiên của ngôi nhà rất độc đáo và hài hòa.

Ngôi nhà cổ này được xây dựng năm 1895 bằng vật liệu chính là gỗ. Mái nhà lợp ngói âm dương, hai bên đầu cong vút hình chiếc thuyền, tượng trưng cho miền sông nước Tây Nam Bộ. Năm 1917, ông Huỳnh Cẩm Thuận (cha ông Huỳnh Thủy Lê) cho trùng tu lại ngôi nhà mang dáng dấp một biệt thự Pháp, kết hợp hài hòa giữa hai lối kiến trúc Đông - Tây. Từ đó đến nay, mặc dù đã hơn 100 năm nhưng ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn.

< Một số vật dụng lưu giữ trong ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê.

Ngôi nhà là một công trình kiến trúc khác lạ. Phía ngoài ấn tượng với lối kiến trúc Pháp qua các chi tiết mặt tiền, trần nhà, khung cửa sổ. Những bức tượng, phù điêu đắp nổi được trang trí theo kiểu Phục hưng. Vòm cửa cong vòng theo lối kiến trúc La Mã, cửa sổ với khối kính nhiều màu kiểu Gothic đón ánh sáng. Nhìn từ ngoài vào ngôi nhà, du khách thấy sự uy nghiêm, bề thế, cho thấy gia chủ là người rất giàu có và uy quyền.

Nhưng, vào trong ngôi nhà, du khách lại có cảm giác yên bình và thân thuộc. Lối kiến trúc phương Đông thể hiện sự mềm mại qua những đường nét chạm khắc tinh xảo, cầu kỳ hình chim muông, cây trái, tùng, cúc, trúc, mai... trên gỗ quý.

Điều đặc biệt là các họa tiết đó lại khắc họa cảnh sông nước Nam bộ sầm uất, cây trái xanh tươi, tượng trưng cho vùng đất trù phú. Ngôi nhà được chia thành 3 gian, gian giữa thờ Quan Công theo văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người Hoa.


< Bên trong ngôi nhà, lối kiến trúc phương Đông thể hiện qua những đường nét chạm khắc tinh xảo, cầu kỳ.

Hai gian hai bên là nơi tiếp khách cùng hai phòng ngủ, một hành lang rộng dẫn xuống nhà dưới. Nền nhà cao ráo, lát gạch hoa, tường xây bằng gạch đặc dày 30cm - 40cm, bao lấy kết cấu khung gỗ, làm tăng khả năng chịu lực. Tất cả vật liệu này đều được mang từ Pháp về để xây dựng.

Ngôi nhà này là nơi đây bắt đầu cho một câu chuyện tình giữa gia chủ và nữ văn hào Pháp Marguerite Duras. Cuối năm 1929, trên chuyến phà Mỹ Thuận chạy ngang sông Tiền, ông Huỳnh Thủy Lê thấy một giai nhân nổi bật có nước da trắng, tóc nâu vàng, dáng người cao ráo, đứng lơ đễnh trên phà nhìn những đám lục bình trôi tản mạn trên sông.

< Du khách nước ngoài nghe kể về lịch sử ngôi nhà.

Ông đã chủ động đến làm quen với cô gái bằng tiếng Pháp và cả hai đều trúng“tiếng sét ái tình”. Tình yêu ấy kéo dài gần hai năm trong bí mật và kết thúc trong nước mắt khi ông Huỳnh Thủy Lê phải cưới một cô gái đã được cha ông an bài từ trước. Nhìn tình nhân cưới người khác, Marguerite Duras đau khổ tột độ, quyết định cùng gia đình lên tàu trở về nước Pháp.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Marguerite Duras vẫn ôm nặng mối tình ấy. Trong dòng hồi tưởng, nữ văn sĩ đã viết nên tiểu thuyết “Người tình” (tên tiếng Pháp là L’amant, xuất bản năm 1984) để kể về cuộc tình trắc trở của bà. Đến nay, tiểu thuyết “Người tình” được dịch ra hơn 40 thứ tiếng. Năm 1992, đạo diễn người Pháp Jean Jacques Annaud cho ra đời bộ phim cùng tên dựa theo tiểu thuyết của bà. Bộ phim công chiếu đã nhận được nhiều sự tán thưởng của khán giả khắp nơi trên thế giới.

< Hướng dẫn viên kể về câu chuyện tình đẹp và lãng mạn giữa nữ văn hào Pháp Marguerite Duras và ông Huỳnh Thủy Lê.

Tiểu thuyết “Người tình” và bộ phim cùng tên ngày càng nổi tiếng thì nhà cổ Huỳnh Thủy Lê lại càng được du khách năm châu quan tâm, tìm hiểu. Rất nhiều đoàn khách nước ngoài từ Pháp, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh… đã đến đây và rất thích thú. Năm 2009, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia.

Vé máy bay đi los angeles! - Theo Nguyễn Oanh - Lê Minh (Vnanet.vn)

Xã Hưng Đạo (Hòa An - Cao Bằng) là vùng đất khá bằng phẳng, có những cánh đồng rộng mênh mông, ven con sông Bằng Giang thấm đẫm những dấu tích lịch sử của tiền nhân. Nơi đây đang lưu truyền một truyền thuyết nói về vùng đất cổ, đầy bí ẩn của một thời về An Dương Vương.
Từng có truyền thuyết được người dân kể lại rằng, ở vùng đất này xưa kia là nơi Thục Chế, bố của An Dương Vương xây dựng thành Bản Phủ ở Cao Bình. Truyền thuyết là niềm tự hào của biết bao thế hệ người dân nơi đây. Tuy nhiên, truyền thuyết được truyền lại cho rằng An Dương Vương đã "lập địa" ở Bản Phủ là sự thật. Còn những hiện vật để minh chứng cho vùng đất cổ mà người cha của An Dương Vương đã chọn để xây thành thì nay vẫn là điều vô cùng bí ẩn.

Truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa"

Được biết, vùng đất Cao Bình xưa (Cao Bằng nay) nằm dọc theo hai bên bờ của dòng Bằng Giang, nơi trung tâm của bồn địa Hòa An, theo truyền thuyết vốn là kinh đô của nước Nam Cương thời Thục Phán, còn thế kỷ XVII là kinh thành của vương triều Nhà Mạc tồn tại ngót 80 năm.

Rất nhiều người dân xã Hưng Đạo (Hòa An - Cao Bằng) kể cho nhau một truyền thuyết xưa kia về vùng đất mà mình đang sống chính là nơi Thục Chế, cha đẻ của An Dương Vương đã từng sinh sống, đắp đất xây thành lũy để phòng thủ, bảo vệ dân làng trước giặc ngoại xâm.

Để tìm hiểu rõ thực hư truyền thuyết, chúng tôi đã có chuyến công tác rong ruổi hàng tuần tại vùng đất lưu nhiều dấu ấn lịch sử này. Gặp nhiều người cao tuổi họ chỉ biết nơi đây có một truyền thuyết về "Cẩu chủa cheng vùa" (Chín chúa tranh vua) nhưng cũng không rõ ngọn ngành của truyền thuyết ra sao.

Được chị Ngô Thị Cẩm Châu, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Cao Bằng giới thiệu, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Đức Hạnh- nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đảng tỉnh Cao Bằng, nay là Trường Chính trị tỉnh, là người thường xuyên cùng các cụ cao niên trong xã tổ chức các đợt khảo cổ tại địa phương.

Ông kể rằng, năm 1963, một tư liệu mới về An Dương Vương Thục Phán được công bố. Ðó là truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa" (chín chúa tranh vua) của đồng bào Tày ở Cao Bằng. Theo truyền thuyết này thì Thục Phán là con của Thục Chế "vua" của "nước" Nam Cương ở vùng Cao Bằng, hiện nay, mà trung tâm là Hòa An (Cao Bằng).

Nam Cương gồm chín xứ Mường. Vào cuối đời Hùng Vương, Thục Chế mất, thọ 95 tuổi, con là Thục Phán hãy còn ít tuổi (10 tuổi). Chín chúa Mường kéo quân về bắt Thục Phán chia nhỏ đất ra cho các chúa cai quản và đòi nhường ngôi "vua". Thục Phán tuy ít tuổi nhưng rất thông minh, đã bày ra những cuộc đua sức, đua tài và giao hẹn ai thắng cuộc sẽ được nhường ngôi.

Thục Phán dùng mưu kế làm cho các chúa mất nhiều công sức, mà không ai thắng cuộc. Như tổ chức các cuộc thi bắn cung trúng lá đa khi lá rụng, dùng một cái lưỡi cày để làm ra 1.000 chiếc kim, Thục Phán còn dùng cả "mỹ nhân kế", cho 10 thiếu nữ xinh đẹp đi theo các người thi… Đến giờ Hợi nhưng tất cả các chúa vẫn chưa ai làm xong. Cuối cùng, các chúa không ai thắng được đã phải qui phục Thục Phán. Sau đó, "nước" Nam Cương trở nên cường thịnh.

Cuối những năm 60 lại xuất hiện thêm hai giả thuyết mới về nguồn gốc của Thục Phán. Tất cả những giả thuyết trên đây cho thấy nguồn gốc của Thục Phán và sự ra đời của nước Âu Lạc còn ẩn chứa nhiều bí ẩn. Nhưng xu hướng chung của các nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây đều cho rằng quê hương của Thục Phán là ở vùng miền núi phía Bắc nước ta.

Vùng đất cổ?

Đang trò truyện với chúng tôi, ông Hạnh lục trong tủ mang ra một cuốn sách cổ có ghi lại rất nhiều trang sử của vùng. Ông cho biết, cư dân nước Văn Lang đời Hùng Vương chủ yếu là người Lạc Việt và bao gồm cả một bộ phận người Tây Âu (hay còn gọi là Âu Việt) ở miền núi rừng và trung du phía Bắc, hai thành phần đó sống xen kẽ với nhau trong nhiều vùng. Phía Bắc nước Văn Lang là địa bàn cư trú của người Tây Âu, cũng có những nhóm Lạc Việt sống xen kẽ.

Lạc Việt và Tây Âu là hai nhóm phía Nam của Bách Việt, sống gần gũi nhau và cư trú đan xen nhau trên lưu vực sông Hồng và Tây Giang. Vừa là đồng chủng, vừa là láng giềng, từ lâu người Lạc Việt và người Tây Âu đã có nhiều quan hệ mật thiết về kinh tế, văn hóa.

Ông Hạnh kể thêm, giữa người Lạc Việt và Tây Âu, cũng như giữa Hùng và Thục, đã có nhiều quan hệ gắn bó lâu đời. Huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ đã chứa đựng mối quan hệ giữa hai yếu tố Lạc và Âu trong cội nguồn xa xưa của các thành phần dân tộc ở Việt Nam. Nhiều thần tích và truyền thuyết về Hùng Vương và An Dương Vương coi Thục Phán là thuộc "dòng dõi", "tông phái", hoặc là "cháu ngoại" của vua Hùng.

Còn nói về lịch sử của vùng đất này thì ông Hạnh cho hay, tỉnh Cao Bằng đã được thành lập cách đây hơn 500 năm thì đã có 178 năm trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội nằm ở Cao Bình, Hòa An ngày nay. Còn ở xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An có khả năng nơi này trước đây có một ông quan to dựng nhà cửa, sinh sống ở đây.

Nơi đây ở giữa cánh đồng Thiên Thanh có một vùng đất cao hẳn lên so với mặt ruộng, nơi này trước đây có chùa Viên Minh (nay là chùa Đà Quận). Chùa hiện còn lưu giữ chiếc chuông đồng cổ và đền thờ quan triều Dương Tự Minh. Dương Tự Minh là người Tày ở Thái Nguyên nhưng hai lần có công thắng quân Tống, cai quản cả phủ Phú Lương ngày xưa gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và một phần của Lạng Sơn và Vĩnh Phú…

Theo chị Ngô Thị Cẩm Châu, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Cao Bằng thì ở Cao Bằng qua khai quật khảo cổ, và một số phát hiện của địa phương trong quá trình xây dựng và sản xuất đã thu được một số hiện vật có giá trị về mặt lịch sử như: Đồ đá, đồ đồng, gốm, và đặc biệt mới đây nhất, trong quá trình dùng máy xúc đất người dân đã phát hiện một thanh đao cổ dài hơn 1m nhưng chưa rõ có từ thời nào? Thanh đao đó hiện đang được lưu giữ tại bảo tàng tỉnh.

Chị Châu cho biết thêm: "Trước đó tại Ngườm Vài, Cần Yên (Thông Nông - năm 2008) đã phát hiện di chỉ thời đại đồ đá cũ và công cụ chặt thô bằng đá rất nhiều, khoảng vài trăm hiện vật. Những phát hiện đó quả thực là thật đáng mừng".

Tuy nhiên, đến thời điểm này khi nói đến vùng đất mà An Dương Vương đã từng sinh sống thì theo các nhà khảo cổ học thì vẫn chưa phát hiện được một dấu tích nào của An Dương Vương ở vùng đất xã Hưng Đạo (Hòa An - Cao Bằng). Tất cả chỉ có trong truyền thuyết.

Khai quật

< Các hiện vật bằng sứ, gốm com men được phát hiện qua khai quật.

Trước những truyền thuyết chỉ là một phần để minh chứng cho vùng đất Cao Bằng vốn cho là cổ này. Một đoàn nghiên cứu của Viện Khảo cổ  học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam do PGS.TS Trình Năng Chung làm trưởng đoàn đã tiến hành khai quật khảo cổ tại một số điểm di tích xung quanh thành bản phủ Cao Bình tại xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Trong vòng một tuần, đoàn khảo cổ đã tiến hành khai quật tại 3 điểm, gồm Bản Phủ, Đà Quận và Bó Mạ. Tại Bản Phủ, ngay cạnh chợ Cao Bình, hố khai quật được xẻ ngang di tích của tường thành cũ, có lũy tre dày đặc và phía bên ngoài là hào sâu bao bọc, đây là bức thành được đắp bằng đất, vừa có giá trị phòng thủ quân sự, vừa có tác dụng ngăn lũ sông Bằng Giang, bảo vệ cho khu vực Bản Phủ.

Theo PGS.TS Trình Năng Chung thì mặt cắt của thành Bản Phủ là tường đất được đắp cao, ngay bên dưới là đường hào, người xưa đã lấy đất từ hào để đắp lên thành. Đoàn khảo cổ đào tương đối triệt để qua mặt cắt, trước hết để tìm xem kết cấu đất đắp thành. Hai là tìm trong thành có các di vật từ trong lớp đất nó nói lên điều gì. Và nghiên cứu tìm hiểu về tính chất cũng như niên đại của thành này.

Qua mặt cắt đoàn khảo cổ khai quật cho thấy về cơ bản thì có 7 lớp cơ bản, và hai lớp phụ ở phần trên là lớp mùn sau này, các lớp đất được phân biệt nhau bởi các màu sắc khác nhau. Qua nghiên cứu về các di vật, trong khi đào đoàn khảo cổ phát hiện được hàng trăm di vật, bao gồm đồ đá, đồ sành, gốm com men và sứ. Và ngoài ra cũng tìm được một số mẩu kim lại bằng sắt và đồng đã rỉ. Sự khác nhau giữa các di vật trong các tầng lớp hầu như không có, gần như là có sự tương tự giống nhau lớn. Điều đó nói lên cái thành này được đắp trong cùng một thời gian. Mặc dù các lớp đất có màu sắc khác nhau, nó phản ánh lớp đất nguyên thổ đầu tiên khi cư dân ở đây đắp đất lên.

Khi chúng tôi hỏi về niên đại của thành, thì PGS.TS Trình Năng Chung cho biết: "Chúng tôi đã nghiên cứu và xác định niên đại những di vật nằm trong địa tầng, phần lớn các hiện vật thu được cho thấy thành này được xây dựng từ thời Lê - Mạc. Đó là điều rất lý thú, qua mặt cắt của lớp địa tầng này, và qua các diễn biến của di vật các tầng lớp đất tìm thấy trong thành. Thì đây là thành hàm chứa rất nhiều giá trị văn hóa vùng này, đây cũng là câu trả lời cho những ai yêu thích và yêu mến lịch sử quê hương đất nước mình thì câu trả lời đó tôi nghĩ rằng trong tương lại gần thôi.

Sau đó đoàn khảo cổ đã tiến hành khảo cổ ở xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, bên cạnh là di tích lịch sử chùa Đà Quận, nơi đây con lưu giữ hai chiếc chuông đồng thời cổ rất lớn. Đoàn khai quật mới chỉ đào một hố nhỏ sâu khoảng 20cm trong vườn nhà dân, dài chừng 3m nhưng đã phát hiện nhiều hiện vật nằm dày đặc, chủ yếu là các loại vật liệu xây dựng, kiến trúc như gạch, ngói bằng đất nung, chứng tỏ đây là chứng tích của một công trình cổ có từ thời Lê.

< Chuông cổ tại khu vực thành Bản Phủ.

Là trưởng đoàn khảo cổ, PGS.TS Trình Năng Chung nhận định: "Qua kết quả khảo sát ban đầu, chúng tôi thấy đây là một di tích kiến trúc rất quan trọng, nó phản ánh một giai đoạn lịch sử của vùng đất Cao Bằng.  Gặp PGS.TS tại Viện Khảo cổ, ông đưa ra một số hình ảnh thu được trong chuyến khảo cổ đó. Chỉ vào hiện vật bằng đất nung, có hình dáng giống như đầu rồng PGS cho biết: "Những mảnh trang trí này thường người ta gắn vào kiến trúc mà giới thượng lưu trong quý tộc, trong xã hội mới được sử dụng. Đó là mảng trang trí mà hình tượng là con rồng, có mắt, tay, nhưng không còn nguyên vẹn, bị vỡ. Do vậy nhìn vào những trang trí của hiện vật thì ta biết rằng đây là những hiện vật có từ thời Lê".

Những chứng tích lịch sử

Có mặt tại thôn Đà Quận để tìm hiểu về những chứng tích lịch sử của vùng đất cổ này. Nhìn vào vị trí của khu kiến trúc cổ đã được khai quật, PGS.TS Trình Năng Chung cho hay: "Chủ của khu này chiếm vị trí rất lớn trong xã hội đương thời. Với biểu trượng là con rồng thì ta biết rằng chủ nhân của khu di tích này cũng có thể là người đứng ở vị trí quan lại lớn trong triều hoặc là người đứng đầu ở khu vực này".

Cũng trong đợt khảo cổ để tìm dấu tích của một thời đại Kim Khí An Dương Vương đã từng xây thành, lập chốt ở Cao Bằng, đoàn khảo cổ đã tiến hành khảo sát bãi đá sỏi lộ thiên tại làng Bó Mạ, xã Hưng Đạo, qua khảo sát các nhà khảo cổ phát hiện, ở bến sông ăn ngầm sâu vào trong bờ có công cụ bằng đá thô sơ, chứng tỏ thời tiền sử đã từng sinh sống ở đây. Đó là những công cụ bằng đá mà người nguyên thủy ghè một đầu  để làm chỗ cầm, dìu đá. Làm tay cầm để thao tác, tác động vào chặt cây hay con thú. Con người đã sớm sinh sống ở khu vực này mà nơi cư trú chính là những gò đất cao dọc theo bờ sông Bằng Giang. Theo PGS Trình Năng Chung đây là phát hiện có tầm quan trọng về mặt khoa học lịch sử và khảo cổ không chỉ riêng cho Cao Bằng.

Trong vòng một tuần, đoàn khảo cổ do PGS.TS Trình Năng Chung làm trưởng đoàn, với tinh thần làm việc khẩn trương, nghiêm túc đoàn đã phát hiện được nhiều hiện vật, di chỉ khảo cổ có giá trị về nhiều mặt. Qua kết quả của cuộc khảo sát khảo cổ học đã thu lại một số tiền thức như sau: Đây là lần thứ hai Cao Bằng phát hiện được di tích đá cũ mà cũng là lần đầu tiên trên thềm sông cổ, sông Bằng Giang là tìm thấy dấu tích con người thời nguyên thủy, đó là cái nhận thức rất mới, và cái nhận thức tiếp theo là cái di tích thành Bản Phủ, qua đào khảo sát càng thấy rõ hơn giá trị lịch sử, văn hóa, và vị thế của thành Bản Phủ trong lịch sử của vùng đất Cao Bằng nói riêng và Việt Nam nói chung. Và cái nhận thức nữa là trên vùng đất Hưng Đạo, thấm đẫm dấu tích của lịch sử tiền nhân, cụ thể là ở trong đợt này phát hiện được một loạt dấu tích kiến trúc, trong đó có dấu tích kiến trúc ở Đà Quận và khu đồng Thiên Thanh, ở xóm Bản Phủ.

Qua dấu tích kiến trúc ta biết được về lịch sử văn hóa của người thời cổ có giá trị rất lớn về mặt văn hóa cũng như về mặt lich sử, cũng nói lên vị thế của vùng đất Hòa An trong lịch sử Cao Bằng. Cái nổi trội hơn cả là qua đợt khảo cổ nghiên cứu cho thấy vùng đất Cao Bằng là vùng đất cổ có bề dầy về văn hoá lịch sử rất lâu đời. Ít ra đã có từ hàng vạn năm về trước. Nhưng liệu nơi đây có phải là nơi An Dương Vương sinh sống, nuôi quân đánh giặc hay không thì đến nay vẫn chưa có dấu tích nào để khẳng định điều này.

Đi tìm dấu ấn vùng đất cổ

PGS.TS Trình Năng Chung cho biết: "Qua khảo sát, quan sát địa tầng và các hiện vật thu được chúng tôi cố gắng liên hệ giữa thành Bản Phủ với thời đại kim khí lớn, thời đại của An Dương Vương, cho đến bây giờ kết quả phân tích các mẫu vật lấy được trong thành và phân tích mẫu đất để có câu trả lời về mặt niên đại. Chúng tôi cũng rất mong muốn sẽ có sự hòa hợp giữa truyền thuyết và chứng tích khảo cổ học. Nhưng hầu hết các hiện vật trong chuyến khảo cổ cuối năm 2010 thu được chủ yếu là các hiện vật có từ thời Lê - Mạc. Và một số hiện vật có từ thời tiền sử, đồ đá cũ".

Dựa vào rất nhiều chuyến khảo cổ của mình, PGS.TS Trình Năng Chung tập hợp lại và suy luận rằng. Trên Lào Cai cũng là một vùng đất cổ, ở đó đã phát hiện có văn hóa đồ đồng, nhiều di vật đồng dọc sông Hồng, có làng mạc ven sông Hồng. Còn ở Cao Bằng là mục tiêu hàng chục năm nay ông đi tìm di chỉ đồ đồng, tuy nhiên đồ đồng cực kỳ hiếm, hiện nay ở Bảo tàng tỉnh Cao Bằng chỉ lưu giữ được 4 chiếc rìu đồng.

Khi chúng tôi hỏi về truyền thuyết thành Bản Phủ, PGS.TS Trình Năng Chung cho hay, thành Bản Phủ được truyền thuyết khoác vào đó là Thục Chế - bố của An Dương Vương xây dựng. Tuy nhiên, vào năm 2007 ông lên Cao Bằng khảo sát thì nhận thấy thành đó có hình vuông, theo báo cáo của các cụ trong xã Hưng Đạo thì thành Bản Phủ cũng là hình vuông.

Về tư duy lô gíc thì đây là thành vuông, thành sau này, thành cổ xưa thì cả cái xóm nằm trên vùng đất bằng, nếu như thành Cổ Loa ngày xưa xây theo chân đồi, chỗ cong thì xây cong, thẳng thì xây thẳng, về mặt lô gíc nếu thành Bản Phủ có từ thời An Dương Vương thì không thể có hình vuông vức được. "Thành ngày xưa được xây để ngăn quân thù, ngày xưa xây quanh theo quả đồi, sau hình học ra đời thì người ta mới xây theo hình vuông" - PGS Chung cho hay.

PGS TS Trình Năng Chung cũng khẳng định rằng: "Thế mạnh của dân khảo cổ học là khai quật, di tích, di vật. Đó là sử liệu, bằng vật chứng cụ thể dưới lòng đất, muốn chứng minh thành Bản Phủ là của An Dương Vương Thục Phán thì phải khai quật như khai quật thành Cổ Loa ở Đông Anh vậy. nhưng làm như thế rất tốn kém về thời gian, vật lực và nhân lực. Về nguyên tắc xây thành bao giờ cũng đào bên trong hất đất ra, chỗ đất được đào sẽ thành một hào rồi đóng chông ngăn quân thù tại hào đó.


< Một trong hai chiếc chuông cổ tại chùa Đà Quận.

Tại Bản Phủ có phát hiện xung quanh thành có hào, hiện vẫn có từng đoạn, một số chỗ là những cái mương rất to, về nguyên tắc thì lớp đất cuối cùng sẽ được đổ lên trên, thì những hiện vật đó được đổ lên trên, đào sâu xuống lớp đất đó thì đây là lớp đất nguyên thổ, nếu thành được xây từ thế kỷ bao nhiêu thì lớp đất nó nói lên tất cả, nào là ngói, gốm sứ, bát đĩa vỡ đều ở thế kỷ XVI và XVII như vậy kết luận thành mà chúng tôi khai quật vào cuối năm 2010 được xây vào vào thời Lê".

Bí ẩn?

Cũng nhằm tìm ra những di tích, di chỉ để minh chứng vùng đất Hưng Đạo (Hòa An) là vùng đất cổ, Hội di sản xã Hưng Đạo do các cụ cao niên trong xóm xã lập ra để nghiên cứu nhưng không tìm thấy dấu vết của An Dương Vương.

Ngoài ra PGS.TS Trình Năng Chung đã đưa ra một so sánh để minh chứng vùng đất Hòa An không phải có từ thời An Dương Vương. Nếu như ở Cổ Loa ta thấy rất nhiều dấu tích, câu ca, vè, ký ức nhưng ở Hòa An (Cao Bằng) không để lại một tý gì về An Dương Vương, trong huyện Hòa An không có một đền thờ An Dương Vương nào, nhưng ở Cổ Loa và vùng lân cận thì rất nhiều, kể cả hiện vật cũng phát hiện rất nhiều. Về khảo cổ học, nếu như ở Cổ Loa người ta phát hiện rất nhiều di chỉ khảo cổ của cư dân thời đại An Dương Vương thời xưa, rất nhiều nhà đào giếng có, xây dựng có phát hiện đồ gốm chứ ở Cao Bằng không có.

Nếu như tìm thấy một thứ gì đó ở Hòa An thì đó là một phát hiện rất lớn, tuy ở Cao Bằng có phát hiện một số hiện vật bằng gốm nhưng gốm thời An Dương Vương nó khô cứng, không có men, độ cứng kém, đó là những bài toán chưa có lời giải ở Cao Bằng. Liệu khu vực thành Bản Phủ có phải là trung tâm không?

Thực tế qua các chuyến khảo cổ PGS.TS Trình Năng Chung cho biết: "Lào Cai có giáo, mác, có làng cư trú ven sông Hồng, ở Cao Bằng bà con đi đào vàng phát hiện 4 cái dìu đồng, giai đoạn đồ đồng của An Dương Vương rất mờ nhạt ở Cao Bằng, bản thân tôi muốn làm sáng tỏ cái đầu tiên, sơ khai của những cư dân thời dựng nước đầu tiên ở Cao Bằng thì không có hiện vật để chứng minh".


< PGS.TS Trình Năng Chung, ông Nguyễn Đức Hạnh.

Cũng có thể vào thế kỷ XVI, XVII Hòa An là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả khu vực, ở đó có sông Bằng Giang tạo nên phù sa cho cánh đồng lúa tốt, vùng khác do địa hình miền núi không có ruộng, và cả về xây dựng nhà cửa cũng không thể xây dựng kiến trúc như ở Đà Quận được, họ chỉ làm nhà sàn, như vậy nghiễm nhiên Đà Quận trở thành trung tâm.

Như vậy đến nay chưa có chứng tích, nói vùng này từ xưa do An Dương Vương làm chủ. Tuy chưa có gì để khẳng định thành Bản Phủ có từ thời An Dương Vương nhưng về vấn đề bảo tồn, qua đợt khảo sát ở Hưng Đạo đã thấy rất nhiều di tích. Những lớp cổ từ thời tiền sử cho đến lịch sử thì rất nhiều và chúng ta biết rằng qua một số nơi đào khảo sát cho thấy rằng cần phải có đầu tư về thời gian, về vật lực và cả kinh phí nữa cho các cuộc khai quật hoặc cho các cuộc nghiên cứu nó sâu rộng hơn để tìm được cái trầm tích, văn hóa, lịch sử của khu vực này, di tích ở xóm Đà Quận là di tích lớn còn nhiều bí ẩn còn đang ẩn chứa dưới lòng đất.

Korean Air! - Theo Văn Hoàng (Langtoday), ảnh internet

Xã Hưng Đạo (Hòa An - Cao Bằng) là vùng đất khá bằng phẳng, có những cánh đồng rộng mênh mông, ven con sông Bằng Giang thấm đẫm những dấu tích lịch sử của tiền nhân. Nơi đây đang lưu truyền một truyền thuyết nói về vùng đất cổ, đầy bí ẩn của một thời về An Dương Vương.
Từng có truyền thuyết được người dân kể lại rằng, ở vùng đất này xưa kia là nơi Thục Chế, bố của An Dương Vương xây dựng thành Bản Phủ ở Cao Bình. Truyền thuyết là niềm tự hào của biết bao thế hệ người dân nơi đây. Tuy nhiên, truyền thuyết được truyền lại cho rằng An Dương Vương đã "lập địa" ở Bản Phủ là sự thật. Còn những hiện vật để minh chứng cho vùng đất cổ mà người cha của An Dương Vương đã chọn để xây thành thì nay vẫn là điều vô cùng bí ẩn.

Truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa"

Được biết, vùng đất Cao Bình xưa (Cao Bằng nay) nằm dọc theo hai bên bờ của dòng Bằng Giang, nơi trung tâm của bồn địa Hòa An, theo truyền thuyết vốn là kinh đô của nước Nam Cương thời Thục Phán, còn thế kỷ XVII là kinh thành của vương triều Nhà Mạc tồn tại ngót 80 năm.

Rất nhiều người dân xã Hưng Đạo (Hòa An - Cao Bằng) kể cho nhau một truyền thuyết xưa kia về vùng đất mà mình đang sống chính là nơi Thục Chế, cha đẻ của An Dương Vương đã từng sinh sống, đắp đất xây thành lũy để phòng thủ, bảo vệ dân làng trước giặc ngoại xâm.

Để tìm hiểu rõ thực hư truyền thuyết, chúng tôi đã có chuyến công tác rong ruổi hàng tuần tại vùng đất lưu nhiều dấu ấn lịch sử này. Gặp nhiều người cao tuổi họ chỉ biết nơi đây có một truyền thuyết về "Cẩu chủa cheng vùa" (Chín chúa tranh vua) nhưng cũng không rõ ngọn ngành của truyền thuyết ra sao.

Được chị Ngô Thị Cẩm Châu, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Cao Bằng giới thiệu, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Đức Hạnh- nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đảng tỉnh Cao Bằng, nay là Trường Chính trị tỉnh, là người thường xuyên cùng các cụ cao niên trong xã tổ chức các đợt khảo cổ tại địa phương.

Ông kể rằng, năm 1963, một tư liệu mới về An Dương Vương Thục Phán được công bố. Ðó là truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa" (chín chúa tranh vua) của đồng bào Tày ở Cao Bằng. Theo truyền thuyết này thì Thục Phán là con của Thục Chế "vua" của "nước" Nam Cương ở vùng Cao Bằng, hiện nay, mà trung tâm là Hòa An (Cao Bằng).

Nam Cương gồm chín xứ Mường. Vào cuối đời Hùng Vương, Thục Chế mất, thọ 95 tuổi, con là Thục Phán hãy còn ít tuổi (10 tuổi). Chín chúa Mường kéo quân về bắt Thục Phán chia nhỏ đất ra cho các chúa cai quản và đòi nhường ngôi "vua". Thục Phán tuy ít tuổi nhưng rất thông minh, đã bày ra những cuộc đua sức, đua tài và giao hẹn ai thắng cuộc sẽ được nhường ngôi.

Thục Phán dùng mưu kế làm cho các chúa mất nhiều công sức, mà không ai thắng cuộc. Như tổ chức các cuộc thi bắn cung trúng lá đa khi lá rụng, dùng một cái lưỡi cày để làm ra 1.000 chiếc kim, Thục Phán còn dùng cả "mỹ nhân kế", cho 10 thiếu nữ xinh đẹp đi theo các người thi… Đến giờ Hợi nhưng tất cả các chúa vẫn chưa ai làm xong. Cuối cùng, các chúa không ai thắng được đã phải qui phục Thục Phán. Sau đó, "nước" Nam Cương trở nên cường thịnh.

Cuối những năm 60 lại xuất hiện thêm hai giả thuyết mới về nguồn gốc của Thục Phán. Tất cả những giả thuyết trên đây cho thấy nguồn gốc của Thục Phán và sự ra đời của nước Âu Lạc còn ẩn chứa nhiều bí ẩn. Nhưng xu hướng chung của các nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây đều cho rằng quê hương của Thục Phán là ở vùng miền núi phía Bắc nước ta.

Vùng đất cổ?

Đang trò truyện với chúng tôi, ông Hạnh lục trong tủ mang ra một cuốn sách cổ có ghi lại rất nhiều trang sử của vùng. Ông cho biết, cư dân nước Văn Lang đời Hùng Vương chủ yếu là người Lạc Việt và bao gồm cả một bộ phận người Tây Âu (hay còn gọi là Âu Việt) ở miền núi rừng và trung du phía Bắc, hai thành phần đó sống xen kẽ với nhau trong nhiều vùng. Phía Bắc nước Văn Lang là địa bàn cư trú của người Tây Âu, cũng có những nhóm Lạc Việt sống xen kẽ.

Lạc Việt và Tây Âu là hai nhóm phía Nam của Bách Việt, sống gần gũi nhau và cư trú đan xen nhau trên lưu vực sông Hồng và Tây Giang. Vừa là đồng chủng, vừa là láng giềng, từ lâu người Lạc Việt và người Tây Âu đã có nhiều quan hệ mật thiết về kinh tế, văn hóa.

Ông Hạnh kể thêm, giữa người Lạc Việt và Tây Âu, cũng như giữa Hùng và Thục, đã có nhiều quan hệ gắn bó lâu đời. Huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ đã chứa đựng mối quan hệ giữa hai yếu tố Lạc và Âu trong cội nguồn xa xưa của các thành phần dân tộc ở Việt Nam. Nhiều thần tích và truyền thuyết về Hùng Vương và An Dương Vương coi Thục Phán là thuộc "dòng dõi", "tông phái", hoặc là "cháu ngoại" của vua Hùng.

Còn nói về lịch sử của vùng đất này thì ông Hạnh cho hay, tỉnh Cao Bằng đã được thành lập cách đây hơn 500 năm thì đã có 178 năm trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội nằm ở Cao Bình, Hòa An ngày nay. Còn ở xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An có khả năng nơi này trước đây có một ông quan to dựng nhà cửa, sinh sống ở đây.

Nơi đây ở giữa cánh đồng Thiên Thanh có một vùng đất cao hẳn lên so với mặt ruộng, nơi này trước đây có chùa Viên Minh (nay là chùa Đà Quận). Chùa hiện còn lưu giữ chiếc chuông đồng cổ và đền thờ quan triều Dương Tự Minh. Dương Tự Minh là người Tày ở Thái Nguyên nhưng hai lần có công thắng quân Tống, cai quản cả phủ Phú Lương ngày xưa gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và một phần của Lạng Sơn và Vĩnh Phú…

Theo chị Ngô Thị Cẩm Châu, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Cao Bằng thì ở Cao Bằng qua khai quật khảo cổ, và một số phát hiện của địa phương trong quá trình xây dựng và sản xuất đã thu được một số hiện vật có giá trị về mặt lịch sử như: Đồ đá, đồ đồng, gốm, và đặc biệt mới đây nhất, trong quá trình dùng máy xúc đất người dân đã phát hiện một thanh đao cổ dài hơn 1m nhưng chưa rõ có từ thời nào? Thanh đao đó hiện đang được lưu giữ tại bảo tàng tỉnh.

Chị Châu cho biết thêm: "Trước đó tại Ngườm Vài, Cần Yên (Thông Nông - năm 2008) đã phát hiện di chỉ thời đại đồ đá cũ và công cụ chặt thô bằng đá rất nhiều, khoảng vài trăm hiện vật. Những phát hiện đó quả thực là thật đáng mừng".

Tuy nhiên, đến thời điểm này khi nói đến vùng đất mà An Dương Vương đã từng sinh sống thì theo các nhà khảo cổ học thì vẫn chưa phát hiện được một dấu tích nào của An Dương Vương ở vùng đất xã Hưng Đạo (Hòa An - Cao Bằng). Tất cả chỉ có trong truyền thuyết.

Khai quật

< Các hiện vật bằng sứ, gốm com men được phát hiện qua khai quật.

Trước những truyền thuyết chỉ là một phần để minh chứng cho vùng đất Cao Bằng vốn cho là cổ này. Một đoàn nghiên cứu của Viện Khảo cổ  học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam do PGS.TS Trình Năng Chung làm trưởng đoàn đã tiến hành khai quật khảo cổ tại một số điểm di tích xung quanh thành bản phủ Cao Bình tại xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Trong vòng một tuần, đoàn khảo cổ đã tiến hành khai quật tại 3 điểm, gồm Bản Phủ, Đà Quận và Bó Mạ. Tại Bản Phủ, ngay cạnh chợ Cao Bình, hố khai quật được xẻ ngang di tích của tường thành cũ, có lũy tre dày đặc và phía bên ngoài là hào sâu bao bọc, đây là bức thành được đắp bằng đất, vừa có giá trị phòng thủ quân sự, vừa có tác dụng ngăn lũ sông Bằng Giang, bảo vệ cho khu vực Bản Phủ.

Theo PGS.TS Trình Năng Chung thì mặt cắt của thành Bản Phủ là tường đất được đắp cao, ngay bên dưới là đường hào, người xưa đã lấy đất từ hào để đắp lên thành. Đoàn khảo cổ đào tương đối triệt để qua mặt cắt, trước hết để tìm xem kết cấu đất đắp thành. Hai là tìm trong thành có các di vật từ trong lớp đất nó nói lên điều gì. Và nghiên cứu tìm hiểu về tính chất cũng như niên đại của thành này.

Qua mặt cắt đoàn khảo cổ khai quật cho thấy về cơ bản thì có 7 lớp cơ bản, và hai lớp phụ ở phần trên là lớp mùn sau này, các lớp đất được phân biệt nhau bởi các màu sắc khác nhau. Qua nghiên cứu về các di vật, trong khi đào đoàn khảo cổ phát hiện được hàng trăm di vật, bao gồm đồ đá, đồ sành, gốm com men và sứ. Và ngoài ra cũng tìm được một số mẩu kim lại bằng sắt và đồng đã rỉ. Sự khác nhau giữa các di vật trong các tầng lớp hầu như không có, gần như là có sự tương tự giống nhau lớn. Điều đó nói lên cái thành này được đắp trong cùng một thời gian. Mặc dù các lớp đất có màu sắc khác nhau, nó phản ánh lớp đất nguyên thổ đầu tiên khi cư dân ở đây đắp đất lên.

Khi chúng tôi hỏi về niên đại của thành, thì PGS.TS Trình Năng Chung cho biết: "Chúng tôi đã nghiên cứu và xác định niên đại những di vật nằm trong địa tầng, phần lớn các hiện vật thu được cho thấy thành này được xây dựng từ thời Lê - Mạc. Đó là điều rất lý thú, qua mặt cắt của lớp địa tầng này, và qua các diễn biến của di vật các tầng lớp đất tìm thấy trong thành. Thì đây là thành hàm chứa rất nhiều giá trị văn hóa vùng này, đây cũng là câu trả lời cho những ai yêu thích và yêu mến lịch sử quê hương đất nước mình thì câu trả lời đó tôi nghĩ rằng trong tương lại gần thôi.

Sau đó đoàn khảo cổ đã tiến hành khảo cổ ở xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, bên cạnh là di tích lịch sử chùa Đà Quận, nơi đây con lưu giữ hai chiếc chuông đồng thời cổ rất lớn. Đoàn khai quật mới chỉ đào một hố nhỏ sâu khoảng 20cm trong vườn nhà dân, dài chừng 3m nhưng đã phát hiện nhiều hiện vật nằm dày đặc, chủ yếu là các loại vật liệu xây dựng, kiến trúc như gạch, ngói bằng đất nung, chứng tỏ đây là chứng tích của một công trình cổ có từ thời Lê.

< Chuông cổ tại khu vực thành Bản Phủ.

Là trưởng đoàn khảo cổ, PGS.TS Trình Năng Chung nhận định: "Qua kết quả khảo sát ban đầu, chúng tôi thấy đây là một di tích kiến trúc rất quan trọng, nó phản ánh một giai đoạn lịch sử của vùng đất Cao Bằng.  Gặp PGS.TS tại Viện Khảo cổ, ông đưa ra một số hình ảnh thu được trong chuyến khảo cổ đó. Chỉ vào hiện vật bằng đất nung, có hình dáng giống như đầu rồng PGS cho biết: "Những mảnh trang trí này thường người ta gắn vào kiến trúc mà giới thượng lưu trong quý tộc, trong xã hội mới được sử dụng. Đó là mảng trang trí mà hình tượng là con rồng, có mắt, tay, nhưng không còn nguyên vẹn, bị vỡ. Do vậy nhìn vào những trang trí của hiện vật thì ta biết rằng đây là những hiện vật có từ thời Lê".

Những chứng tích lịch sử

Có mặt tại thôn Đà Quận để tìm hiểu về những chứng tích lịch sử của vùng đất cổ này. Nhìn vào vị trí của khu kiến trúc cổ đã được khai quật, PGS.TS Trình Năng Chung cho hay: "Chủ của khu này chiếm vị trí rất lớn trong xã hội đương thời. Với biểu trượng là con rồng thì ta biết rằng chủ nhân của khu di tích này cũng có thể là người đứng ở vị trí quan lại lớn trong triều hoặc là người đứng đầu ở khu vực này".

Cũng trong đợt khảo cổ để tìm dấu tích của một thời đại Kim Khí An Dương Vương đã từng xây thành, lập chốt ở Cao Bằng, đoàn khảo cổ đã tiến hành khảo sát bãi đá sỏi lộ thiên tại làng Bó Mạ, xã Hưng Đạo, qua khảo sát các nhà khảo cổ phát hiện, ở bến sông ăn ngầm sâu vào trong bờ có công cụ bằng đá thô sơ, chứng tỏ thời tiền sử đã từng sinh sống ở đây. Đó là những công cụ bằng đá mà người nguyên thủy ghè một đầu  để làm chỗ cầm, dìu đá. Làm tay cầm để thao tác, tác động vào chặt cây hay con thú. Con người đã sớm sinh sống ở khu vực này mà nơi cư trú chính là những gò đất cao dọc theo bờ sông Bằng Giang. Theo PGS Trình Năng Chung đây là phát hiện có tầm quan trọng về mặt khoa học lịch sử và khảo cổ không chỉ riêng cho Cao Bằng.

Trong vòng một tuần, đoàn khảo cổ do PGS.TS Trình Năng Chung làm trưởng đoàn, với tinh thần làm việc khẩn trương, nghiêm túc đoàn đã phát hiện được nhiều hiện vật, di chỉ khảo cổ có giá trị về nhiều mặt. Qua kết quả của cuộc khảo sát khảo cổ học đã thu lại một số tiền thức như sau: Đây là lần thứ hai Cao Bằng phát hiện được di tích đá cũ mà cũng là lần đầu tiên trên thềm sông cổ, sông Bằng Giang là tìm thấy dấu tích con người thời nguyên thủy, đó là cái nhận thức rất mới, và cái nhận thức tiếp theo là cái di tích thành Bản Phủ, qua đào khảo sát càng thấy rõ hơn giá trị lịch sử, văn hóa, và vị thế của thành Bản Phủ trong lịch sử của vùng đất Cao Bằng nói riêng và Việt Nam nói chung. Và cái nhận thức nữa là trên vùng đất Hưng Đạo, thấm đẫm dấu tích của lịch sử tiền nhân, cụ thể là ở trong đợt này phát hiện được một loạt dấu tích kiến trúc, trong đó có dấu tích kiến trúc ở Đà Quận và khu đồng Thiên Thanh, ở xóm Bản Phủ.

Qua dấu tích kiến trúc ta biết được về lịch sử văn hóa của người thời cổ có giá trị rất lớn về mặt văn hóa cũng như về mặt lich sử, cũng nói lên vị thế của vùng đất Hòa An trong lịch sử Cao Bằng. Cái nổi trội hơn cả là qua đợt khảo cổ nghiên cứu cho thấy vùng đất Cao Bằng là vùng đất cổ có bề dầy về văn hoá lịch sử rất lâu đời. Ít ra đã có từ hàng vạn năm về trước. Nhưng liệu nơi đây có phải là nơi An Dương Vương sinh sống, nuôi quân đánh giặc hay không thì đến nay vẫn chưa có dấu tích nào để khẳng định điều này.

Đi tìm dấu ấn vùng đất cổ

PGS.TS Trình Năng Chung cho biết: "Qua khảo sát, quan sát địa tầng và các hiện vật thu được chúng tôi cố gắng liên hệ giữa thành Bản Phủ với thời đại kim khí lớn, thời đại của An Dương Vương, cho đến bây giờ kết quả phân tích các mẫu vật lấy được trong thành và phân tích mẫu đất để có câu trả lời về mặt niên đại. Chúng tôi cũng rất mong muốn sẽ có sự hòa hợp giữa truyền thuyết và chứng tích khảo cổ học. Nhưng hầu hết các hiện vật trong chuyến khảo cổ cuối năm 2010 thu được chủ yếu là các hiện vật có từ thời Lê - Mạc. Và một số hiện vật có từ thời tiền sử, đồ đá cũ".

Dựa vào rất nhiều chuyến khảo cổ của mình, PGS.TS Trình Năng Chung tập hợp lại và suy luận rằng. Trên Lào Cai cũng là một vùng đất cổ, ở đó đã phát hiện có văn hóa đồ đồng, nhiều di vật đồng dọc sông Hồng, có làng mạc ven sông Hồng. Còn ở Cao Bằng là mục tiêu hàng chục năm nay ông đi tìm di chỉ đồ đồng, tuy nhiên đồ đồng cực kỳ hiếm, hiện nay ở Bảo tàng tỉnh Cao Bằng chỉ lưu giữ được 4 chiếc rìu đồng.

Khi chúng tôi hỏi về truyền thuyết thành Bản Phủ, PGS.TS Trình Năng Chung cho hay, thành Bản Phủ được truyền thuyết khoác vào đó là Thục Chế - bố của An Dương Vương xây dựng. Tuy nhiên, vào năm 2007 ông lên Cao Bằng khảo sát thì nhận thấy thành đó có hình vuông, theo báo cáo của các cụ trong xã Hưng Đạo thì thành Bản Phủ cũng là hình vuông.

Về tư duy lô gíc thì đây là thành vuông, thành sau này, thành cổ xưa thì cả cái xóm nằm trên vùng đất bằng, nếu như thành Cổ Loa ngày xưa xây theo chân đồi, chỗ cong thì xây cong, thẳng thì xây thẳng, về mặt lô gíc nếu thành Bản Phủ có từ thời An Dương Vương thì không thể có hình vuông vức được. "Thành ngày xưa được xây để ngăn quân thù, ngày xưa xây quanh theo quả đồi, sau hình học ra đời thì người ta mới xây theo hình vuông" - PGS Chung cho hay.

PGS TS Trình Năng Chung cũng khẳng định rằng: "Thế mạnh của dân khảo cổ học là khai quật, di tích, di vật. Đó là sử liệu, bằng vật chứng cụ thể dưới lòng đất, muốn chứng minh thành Bản Phủ là của An Dương Vương Thục Phán thì phải khai quật như khai quật thành Cổ Loa ở Đông Anh vậy. nhưng làm như thế rất tốn kém về thời gian, vật lực và nhân lực. Về nguyên tắc xây thành bao giờ cũng đào bên trong hất đất ra, chỗ đất được đào sẽ thành một hào rồi đóng chông ngăn quân thù tại hào đó.


< Một trong hai chiếc chuông cổ tại chùa Đà Quận.

Tại Bản Phủ có phát hiện xung quanh thành có hào, hiện vẫn có từng đoạn, một số chỗ là những cái mương rất to, về nguyên tắc thì lớp đất cuối cùng sẽ được đổ lên trên, thì những hiện vật đó được đổ lên trên, đào sâu xuống lớp đất đó thì đây là lớp đất nguyên thổ, nếu thành được xây từ thế kỷ bao nhiêu thì lớp đất nó nói lên tất cả, nào là ngói, gốm sứ, bát đĩa vỡ đều ở thế kỷ XVI và XVII như vậy kết luận thành mà chúng tôi khai quật vào cuối năm 2010 được xây vào vào thời Lê".

Bí ẩn?

Cũng nhằm tìm ra những di tích, di chỉ để minh chứng vùng đất Hưng Đạo (Hòa An) là vùng đất cổ, Hội di sản xã Hưng Đạo do các cụ cao niên trong xóm xã lập ra để nghiên cứu nhưng không tìm thấy dấu vết của An Dương Vương.

Ngoài ra PGS.TS Trình Năng Chung đã đưa ra một so sánh để minh chứng vùng đất Hòa An không phải có từ thời An Dương Vương. Nếu như ở Cổ Loa ta thấy rất nhiều dấu tích, câu ca, vè, ký ức nhưng ở Hòa An (Cao Bằng) không để lại một tý gì về An Dương Vương, trong huyện Hòa An không có một đền thờ An Dương Vương nào, nhưng ở Cổ Loa và vùng lân cận thì rất nhiều, kể cả hiện vật cũng phát hiện rất nhiều. Về khảo cổ học, nếu như ở Cổ Loa người ta phát hiện rất nhiều di chỉ khảo cổ của cư dân thời đại An Dương Vương thời xưa, rất nhiều nhà đào giếng có, xây dựng có phát hiện đồ gốm chứ ở Cao Bằng không có.

Nếu như tìm thấy một thứ gì đó ở Hòa An thì đó là một phát hiện rất lớn, tuy ở Cao Bằng có phát hiện một số hiện vật bằng gốm nhưng gốm thời An Dương Vương nó khô cứng, không có men, độ cứng kém, đó là những bài toán chưa có lời giải ở Cao Bằng. Liệu khu vực thành Bản Phủ có phải là trung tâm không?

Thực tế qua các chuyến khảo cổ PGS.TS Trình Năng Chung cho biết: "Lào Cai có giáo, mác, có làng cư trú ven sông Hồng, ở Cao Bằng bà con đi đào vàng phát hiện 4 cái dìu đồng, giai đoạn đồ đồng của An Dương Vương rất mờ nhạt ở Cao Bằng, bản thân tôi muốn làm sáng tỏ cái đầu tiên, sơ khai của những cư dân thời dựng nước đầu tiên ở Cao Bằng thì không có hiện vật để chứng minh".


< PGS.TS Trình Năng Chung, ông Nguyễn Đức Hạnh.

Cũng có thể vào thế kỷ XVI, XVII Hòa An là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả khu vực, ở đó có sông Bằng Giang tạo nên phù sa cho cánh đồng lúa tốt, vùng khác do địa hình miền núi không có ruộng, và cả về xây dựng nhà cửa cũng không thể xây dựng kiến trúc như ở Đà Quận được, họ chỉ làm nhà sàn, như vậy nghiễm nhiên Đà Quận trở thành trung tâm.

Như vậy đến nay chưa có chứng tích, nói vùng này từ xưa do An Dương Vương làm chủ. Tuy chưa có gì để khẳng định thành Bản Phủ có từ thời An Dương Vương nhưng về vấn đề bảo tồn, qua đợt khảo sát ở Hưng Đạo đã thấy rất nhiều di tích. Những lớp cổ từ thời tiền sử cho đến lịch sử thì rất nhiều và chúng ta biết rằng qua một số nơi đào khảo sát cho thấy rằng cần phải có đầu tư về thời gian, về vật lực và cả kinh phí nữa cho các cuộc khai quật hoặc cho các cuộc nghiên cứu nó sâu rộng hơn để tìm được cái trầm tích, văn hóa, lịch sử của khu vực này, di tích ở xóm Đà Quận là di tích lớn còn nhiều bí ẩn còn đang ẩn chứa dưới lòng đất.

Korean Air! - Theo Văn Hoàng (Langtoday), ảnh internet

Cù lao Ông Hổ, nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, TP.Long Xuyên (An Giang), quê hương của Bác Tôn. Trên cù lao có khu lưu niệm và đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong khuôn viên hoa trái xum xuê.

Trước đây, nơi này là ngôi nhà gỗ, được xây dựng vào năm 1887, do thân sinh của Bác Tôn là cụ Tôn Văn Đề xây dựng, với lối kiến trúc hình chữ Quốc, sàn lót ván, mái lợp ngói ống, ngang 12m, dài 13m, rộng hơn 150 m².

Năm 1984, Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận đây là Di tích Lịch sử Quốc gia.

< Lối vào cù lao Ông Hổ.

Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 110 của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nhân dân tỉnh An Giang đã tiến hành làm lễ khánh thành khu lưu niệm và đền thờ Bác với nhiều công trình mới được xây dựng trên khuôn viên 6,7 ha. Trong đó, ngôi nhà thời niên thiếu và đền thờ tưởng niệm Bác Tôn, được xây dựng trong khuôn viên 1.600 m2 với kiến trúc cổ lầu tam cấp đặc sắc, nơi chính điện là tượng Bác Tôn bằng đồng bán thân.

Đối diện với đền thờ là nhà trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn - nơi đây các hình ảnh, hiện vật, các tư liệu và phim hình sống động giúp chúng ta hiểu thêm về Bác, một tấm gương sáng của dân tộc ta về chí khí kiên cường, đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị.

< Ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng được xây dựng vào năm 1887.

Trong khuôn viên khu lưu niệm còn lưu giữ nguyên trạng những hình ảnh, hiện vật gắn với thuở thiếu thời của Bác - đó là căn nhà sàn lót ván 3 gian, 2 chái lợp bằng ngói âm dương cùng với những đồ vật, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình; lũy tre xanh đầu ngõ soi bóng xuống sông Hậu theo thế “Long chầu Nguyệt”. Đã mấy trăm năm nhưng lũy tre vẫn xanh tốt; những ao cá trong vườn vẫn rực màu hoa sen, hoa súng; những vườn cây quanh năm hoa trái trĩu cành...

Khu lưu niệm và đền thờ Bác Tôn tọa lạc ở vị trí cao ráo, vượt đỉnh lũ năm 2000 hơn 0,4 m, gió sông Hậu mát rượi suốt ngày đêm.

< Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng trên cù lao Ông Hổ.

Từ năm 1998 đến nay, trung bình mỗi năm có hơn 200.000 lượt khách đến thăm viếng nơi đây. Đây cũng là địa điểm các cơ quan, đoàn thể tỉnh An Giang đến làm lễ dâng hương, báo công, kết nạp đảng viên, đoàn viên... Khu lưu niệm đang trở thành nơi khách thập phương nô nức tới thăm viếng. Nhà bảo tàng với nhiều hiện vật quý từ chiếc xe đạp Bác Tôn sử dụng như một hình thức rèn luyện thân thể đến mô hình máy bay từng chở Bác về thăm quê nhà.

Cù lao Ông Hổ là vùng đất lấy chữ “Đức” làm gốc, con người sống nhân hậu, nghĩa tình, thủy chung son sắt. Thuở Bác Tôn chào đời, cụ Tôn Văn Đề - thân sinh Bác Tôn và các bậc Nho học nhận thấy cậu con trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, nhân tướng toát lên vẻ thanh cao, giàu chí khí nên đã dùng chữ đệm là “Đức” trước tên là chữ “Thắng” và dự đoán: Cù lao này có long mạch, nhất định sau này cậu bé sẽ là bậc gánh trọng trách của xã tắc, non sông.

Với những truyền thuyết gắn với hiện thực về mảnh đất chôn nhau cắt rốn của Bác Tôn nên cù lao Ông Hổ từ lâu đã thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước mỗi khi đến An Giang. Tình cảm đó đã được đúc kết trong ca dao Nam bộ:

Dù ai xuôi ngược bốn bề
Chưa đến Ông Hổ chưa về An Giang.

Ngày nay, cù lao Ông Hổ đã trở thành một địa chỉ du lịch văn hóa, giáo dục truyền thống về nguồn. Cứ đến dịp lễ, Tết, đặc biệt là vào những ngày tháng Tám mùa thu, du khách khắp nơi lại nô nức xuống phà Ô Môi qua sông Hậu để đến với cù lao Ông Hổ.

Korean Air! - Theo web báo Hậu Giang và nhiều nguồn ảnh khác.

Cù lao Ông Hổ, nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, TP.Long Xuyên (An Giang), quê hương của Bác Tôn. Trên cù lao có khu lưu niệm và đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong khuôn viên hoa trái xum xuê.

Trước đây, nơi này là ngôi nhà gỗ, được xây dựng vào năm 1887, do thân sinh của Bác Tôn là cụ Tôn Văn Đề xây dựng, với lối kiến trúc hình chữ Quốc, sàn lót ván, mái lợp ngói ống, ngang 12m, dài 13m, rộng hơn 150 m².

Năm 1984, Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận đây là Di tích Lịch sử Quốc gia.

< Lối vào cù lao Ông Hổ.

Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 110 của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nhân dân tỉnh An Giang đã tiến hành làm lễ khánh thành khu lưu niệm và đền thờ Bác với nhiều công trình mới được xây dựng trên khuôn viên 6,7 ha. Trong đó, ngôi nhà thời niên thiếu và đền thờ tưởng niệm Bác Tôn, được xây dựng trong khuôn viên 1.600 m2 với kiến trúc cổ lầu tam cấp đặc sắc, nơi chính điện là tượng Bác Tôn bằng đồng bán thân.

Đối diện với đền thờ là nhà trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn - nơi đây các hình ảnh, hiện vật, các tư liệu và phim hình sống động giúp chúng ta hiểu thêm về Bác, một tấm gương sáng của dân tộc ta về chí khí kiên cường, đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị.

< Ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng được xây dựng vào năm 1887.

Trong khuôn viên khu lưu niệm còn lưu giữ nguyên trạng những hình ảnh, hiện vật gắn với thuở thiếu thời của Bác - đó là căn nhà sàn lót ván 3 gian, 2 chái lợp bằng ngói âm dương cùng với những đồ vật, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình; lũy tre xanh đầu ngõ soi bóng xuống sông Hậu theo thế “Long chầu Nguyệt”. Đã mấy trăm năm nhưng lũy tre vẫn xanh tốt; những ao cá trong vườn vẫn rực màu hoa sen, hoa súng; những vườn cây quanh năm hoa trái trĩu cành...

Khu lưu niệm và đền thờ Bác Tôn tọa lạc ở vị trí cao ráo, vượt đỉnh lũ năm 2000 hơn 0,4 m, gió sông Hậu mát rượi suốt ngày đêm.

< Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng trên cù lao Ông Hổ.

Từ năm 1998 đến nay, trung bình mỗi năm có hơn 200.000 lượt khách đến thăm viếng nơi đây. Đây cũng là địa điểm các cơ quan, đoàn thể tỉnh An Giang đến làm lễ dâng hương, báo công, kết nạp đảng viên, đoàn viên... Khu lưu niệm đang trở thành nơi khách thập phương nô nức tới thăm viếng. Nhà bảo tàng với nhiều hiện vật quý từ chiếc xe đạp Bác Tôn sử dụng như một hình thức rèn luyện thân thể đến mô hình máy bay từng chở Bác về thăm quê nhà.

Cù lao Ông Hổ là vùng đất lấy chữ “Đức” làm gốc, con người sống nhân hậu, nghĩa tình, thủy chung son sắt. Thuở Bác Tôn chào đời, cụ Tôn Văn Đề - thân sinh Bác Tôn và các bậc Nho học nhận thấy cậu con trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, nhân tướng toát lên vẻ thanh cao, giàu chí khí nên đã dùng chữ đệm là “Đức” trước tên là chữ “Thắng” và dự đoán: Cù lao này có long mạch, nhất định sau này cậu bé sẽ là bậc gánh trọng trách của xã tắc, non sông.

Với những truyền thuyết gắn với hiện thực về mảnh đất chôn nhau cắt rốn của Bác Tôn nên cù lao Ông Hổ từ lâu đã thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước mỗi khi đến An Giang. Tình cảm đó đã được đúc kết trong ca dao Nam bộ:

Dù ai xuôi ngược bốn bề
Chưa đến Ông Hổ chưa về An Giang.

Ngày nay, cù lao Ông Hổ đã trở thành một địa chỉ du lịch văn hóa, giáo dục truyền thống về nguồn. Cứ đến dịp lễ, Tết, đặc biệt là vào những ngày tháng Tám mùa thu, du khách khắp nơi lại nô nức xuống phà Ô Môi qua sông Hậu để đến với cù lao Ông Hổ.

Korean Air! - Theo web báo Hậu Giang và nhiều nguồn ảnh khác.

Đường thiên lý một dải...
Nhạc sĩ Phạm Duy khi mở đầu Trường ca Con đường cái quan đã viết: “Đi từ ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau/Đi từ ngày lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ sở...”.

< Phối cảnh cầu Năm Căn.

Không chỉ Phạm Duy, nhiều tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng từng dùng cặp địa danh ải Nam Quan - mũi Cà Mau để nói về con đường xuyên đất nước. Thực tế con đường nối liền hai mảnh đất địa đầu ấy vẫn là giấc mơ, khi từ thuở cha ông đi mở cõi đến giờ, đường thiên lý của nước Việt chỉ mới đến được thị trấn Năm Căn (Cà Mau) - nơi con sông Cửa Lớn đầy sóng gió cắt ngang đường về đất mũi.

Nhưng nay giấc mơ về đường thiên lý một dải ấy đã sắp thành sự thật khi cây cầu Năm Căn vừa được khởi công. Cây cầu sẽ trở thành chứng nhân cho niềm đau đáu đã bao thế kỷ của người dân vùng cuối đất VN.

Giấc mơ thiên lý

Hơn 50km quốc lộ 1 từ Cà Mau về Năm Căn có lẽ là những cây số hoang vu nhất trên tuyến đường xuyên Bắc - Nam. Hai bên đường nhà cửa thưa vắng, lau trắng bạt ngàn. Từ trên đỉnh cầu Đầm Cùng - điểm cao nhất của đoạn đường, dõi mắt bốn phía vẫn chỉ bạt ngàn rừng đước và kênh rạch.

Vậy mà ông Năm Khởi (tên thật là Phan Văn Kênh), nguyên bí thư huyện ủy Ngọc Hiển (nay là Năm Căn và Ngọc Hiển) đầu những năm 1980, nói giờ mỗi khi gặp người Năm Căn đi xa lâu ngày, kể về con đường “hoang vu” ấy nhiều người còn mừng rỡ, không tin là sự thật. Bởi đâu xa, vào những năm cuối thập niên 1990, con đường ấy vẫn còn chưa đắp nhựa, tàu cao tốc cũng chưa có. Đường về Cà Mau thăm thẳm tới cả ngày trời sông nước, nói như cây bút ký sự đất Cà Mau - nhà văn Võ Đắc Danh - thì: “Từ Cà Mau cứ lên tàu ngồi nhậu, nhậu say ngủ một giấc rồi tỉnh dậy nhậu nữa tới say. Nếu tàu chạy lẹ chắc cũng về tới đất mũi”.

Bởi vậy, ông Năm Khởi không ngạc nhiên vì sao ngày khởi công cầu Năm Căn hồi tháng 8-2012, bà con “phi” cao tốc, vỏ lãi hà rầm về coi, đậu chật kín một khúc bờ sông Cửa Lớn. Rồi giờ, ngày nào ít cũng có chục chuyến cao tốc trên đường về đất mũi lại ghé vô công trường để coi cây cầu đã xây tới đâu cho bớt nóng lòng. Cũng như bà con miệt cuối đất này, cho tới ngày làm bí thư huyện ủy, ông Năm Khởi vẫn chưa được một lần về Cà Mau hay xuôi đất mũi bằng lộ cho đã chân.

< Các đơn vị thi công động thổ xây dựng cầu Năm Căn.

Phải mấy năm sau ngày ông nghỉ hưu, đoạn 1985-1986 mới có con lộ đất bé xíu về Cà Mau mà phải qua quá trời đò, phà. Dần dần, xáng cạp đắp con lộ ấy to hơn và trở thành quốc lộ 1 với đường đắp nhựa những năm 2000.

Nhưng đó là đường về Cà Mau, còn xuôi về phía đất mũi, cả huyện Ngọc Hiển vẫn là một hòn đảo ngăn cách bởi ba bề đại dương và dòng sông Cửa Lớn. Ông Năm Khởi ví von: “Nếu sách kỷ lục VN chịu công nhận thì chắc chắn Ngọc Hiển sẽ là huyện có ôtô ít nhất cả nước. Bởi tới giờ cả huyện mới có... ba chiếc ôtô, được dùng làm xe công vụ cho ủy ban và huyện ủy”. “Không phải dân Ngọc Hiển nghèo không có tiền sắm, mà vì không lẽ sắm ôtô rồi chạy xà quần trong sân nhà mình” - ông Năm Khởi tiếu lâm khi nói về vùng đất bờ nam sông Cửa Lớn, nơi duy nhất của cả nước vẫn chưa có đường ôtô từ trung tâm huyện về tới tất cả các xã.

Biệt lệ ở nghị trường

Không phải chỉ người Cà Mau mong chờ cầu Năm Căn, mà người trong cả nước, những ai biết về vị trí quan trọng của cây cầu, từng suy nghĩ về một con đường nối liền mạch đất nước đều mong chờ. Nỗi mong chờ ấy đã được thể hiện không gì rõ hơn bằng phiên họp toàn thể của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII ngày 18-6-2012, khi đa số đại biểu đã biểu quyết bổ sung vốn từ nguồn trái phiếu Chính phủ để xây cầu Năm Căn.

“Một quyết định đặc biệt để xây dựng cây cầu đặc biệt” - ông Dương Tiến Dũng, phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, đã nói vậy về quyết định cấp 650 tỉ đồng để xây cầu Năm Căn từ cơ quan dân cử cao nhất cả nước. Trước đó, nguồn vốn để xây cầu Năm Căn tưởng như bế tắc khi kinh tế khó khăn, Quốc hội ra nghị quyết dừng bổ sung vốn từ trái phiếu Chính phủ để xây các công trình mới. Nhưng câu chuyện từ đất mũi, từ nỗi mong chờ về con đường nối liền bán đảo Cà Mau, nối liền đất nước đã đưa cầu Năm Căn trở thành câu chuyện biệt lệ ở nghị trường.

Để có được biệt lệ ấy, từ năm 2009 chính quyền Cà Mau đã tìm nhiều cách để chuyển tải niềm mong mỏi của người dân về cây cầu Năm Căn đến trung ương. Ông Dương Tiến Dũng nhớ người đầu tiên lãnh đạo tỉnh tham khảo là nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Sự rụt rè ban đầu của lãnh đạo tỉnh nhanh chóng tan biến khi nhận được sự tán đồng của nguyên Chủ tịch nước.

Vậy là tranh thủ mọi cơ hội, Cà Mau đề xuất, giới thiệu với trung ương về tầm quan trọng của cầu Năm Căn, về nỗi mong ngóng của người dân vùng cuối đất. Chuẩn bị sẵn sàng cả các khâu từ khảo sát, thiết kế, mặt bằng trong khi chờ trung ương duyệt. Nhờ vậy mà chỉ hơn hai tháng sau ngày Quốc hội thông qua, ngày 29-8-2012, cây cầu mơ ước của người dân Cà Mau đã được khởi công.

Cầu Năm Căn đang được xây - đường thiên lý sắp liền một dải, ước mơ tưởng quá bình dị nhưng đằng đẵng đã bao năm về một con lộ đi cho đã chân của người dân miệt cuối đất sắp sửa thành hiện thực. Ông Dương Tiến Dũng kể người dân phía đất mũi dường như không còn nén được sự mong chờ nữa. Hồi mới rục rịch có tin Chính phủ sẽ cấp vốn xây cầu Năm Căn, dân Ngọc Hiển đã phi tàu cao tốc về Cà Mau mua xe máy rần trời dù chưa có đường chạy.

Chính quyền tỉnh Cà Mau cũng nóng lòng theo, cấp luôn kinh phí làm trước 20km lộ nhựa ngược lên từ đất mũi cho bà con chạy đỡ trong khi chờ cầu xây xong. “Giờ ngày nào điện thoại của tui cũng rộn cuộc gọi từ dân dưới đó, mà hỏi miết có một câu: Vậy chớ hồi nào mới xây xong cầu Năm Căn vậy ông phó chủ tịch?” - ông Dương Tiến Dũng cười rổn rảng.

Dự án cầu Năm Căn có cầu bêtông vĩnh cửu dài 890m, đường dẫn hai đầu hơn 2.500m, cầu có độ tĩnh không 30m đảm bảo cho tàu thuyền lớn qua lại, dự kiến xây dựng trong 18 tháng. Kỹ sư Trần Duy Trường - phó giám đốc chi nhánh Công ty xây dựng 479 tại Cà Mau, cho biết: Vì được xây trên một nền địa chất non yếu nên cầu Năm Căn là cây cầu có kỹ thuật xây dựng rất phức tạp, có cọc móng nhồi sâu đến 91m (bình thường chỉ khoảng 60m). Đồng thời dầm giữ lưu của nhịp chính còn có thêm cáp giữ lực phía ngoài.

Ngoài việc xóa thế cách trở cho huyện Ngọc Hiển, cầu Năm Căn sẽ có sự cộng hưởng trong việc phát triển kinh tế cả tỉnh Cà Mau và khu vực, khi cảng nước sâu Hòn Khoai được xây dựng có thể đón tàu trên 100.000 tấn bốc dỡ hàng hóa.
Hết.


Korean Air! - Theo Nguyễn Viễn Sự (TTO) và nhiều nguồn ảnh khác.

Đường thiên lý một dải...
Nhạc sĩ Phạm Duy khi mở đầu Trường ca Con đường cái quan đã viết: “Đi từ ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau/Đi từ ngày lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ sở...”.

< Phối cảnh cầu Năm Căn.

Không chỉ Phạm Duy, nhiều tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng từng dùng cặp địa danh ải Nam Quan - mũi Cà Mau để nói về con đường xuyên đất nước. Thực tế con đường nối liền hai mảnh đất địa đầu ấy vẫn là giấc mơ, khi từ thuở cha ông đi mở cõi đến giờ, đường thiên lý của nước Việt chỉ mới đến được thị trấn Năm Căn (Cà Mau) - nơi con sông Cửa Lớn đầy sóng gió cắt ngang đường về đất mũi.

Nhưng nay giấc mơ về đường thiên lý một dải ấy đã sắp thành sự thật khi cây cầu Năm Căn vừa được khởi công. Cây cầu sẽ trở thành chứng nhân cho niềm đau đáu đã bao thế kỷ của người dân vùng cuối đất VN.

Giấc mơ thiên lý

Hơn 50km quốc lộ 1 từ Cà Mau về Năm Căn có lẽ là những cây số hoang vu nhất trên tuyến đường xuyên Bắc - Nam. Hai bên đường nhà cửa thưa vắng, lau trắng bạt ngàn. Từ trên đỉnh cầu Đầm Cùng - điểm cao nhất của đoạn đường, dõi mắt bốn phía vẫn chỉ bạt ngàn rừng đước và kênh rạch.

Vậy mà ông Năm Khởi (tên thật là Phan Văn Kênh), nguyên bí thư huyện ủy Ngọc Hiển (nay là Năm Căn và Ngọc Hiển) đầu những năm 1980, nói giờ mỗi khi gặp người Năm Căn đi xa lâu ngày, kể về con đường “hoang vu” ấy nhiều người còn mừng rỡ, không tin là sự thật. Bởi đâu xa, vào những năm cuối thập niên 1990, con đường ấy vẫn còn chưa đắp nhựa, tàu cao tốc cũng chưa có. Đường về Cà Mau thăm thẳm tới cả ngày trời sông nước, nói như cây bút ký sự đất Cà Mau - nhà văn Võ Đắc Danh - thì: “Từ Cà Mau cứ lên tàu ngồi nhậu, nhậu say ngủ một giấc rồi tỉnh dậy nhậu nữa tới say. Nếu tàu chạy lẹ chắc cũng về tới đất mũi”.

Bởi vậy, ông Năm Khởi không ngạc nhiên vì sao ngày khởi công cầu Năm Căn hồi tháng 8-2012, bà con “phi” cao tốc, vỏ lãi hà rầm về coi, đậu chật kín một khúc bờ sông Cửa Lớn. Rồi giờ, ngày nào ít cũng có chục chuyến cao tốc trên đường về đất mũi lại ghé vô công trường để coi cây cầu đã xây tới đâu cho bớt nóng lòng. Cũng như bà con miệt cuối đất này, cho tới ngày làm bí thư huyện ủy, ông Năm Khởi vẫn chưa được một lần về Cà Mau hay xuôi đất mũi bằng lộ cho đã chân.

< Các đơn vị thi công động thổ xây dựng cầu Năm Căn.

Phải mấy năm sau ngày ông nghỉ hưu, đoạn 1985-1986 mới có con lộ đất bé xíu về Cà Mau mà phải qua quá trời đò, phà. Dần dần, xáng cạp đắp con lộ ấy to hơn và trở thành quốc lộ 1 với đường đắp nhựa những năm 2000.

Nhưng đó là đường về Cà Mau, còn xuôi về phía đất mũi, cả huyện Ngọc Hiển vẫn là một hòn đảo ngăn cách bởi ba bề đại dương và dòng sông Cửa Lớn. Ông Năm Khởi ví von: “Nếu sách kỷ lục VN chịu công nhận thì chắc chắn Ngọc Hiển sẽ là huyện có ôtô ít nhất cả nước. Bởi tới giờ cả huyện mới có... ba chiếc ôtô, được dùng làm xe công vụ cho ủy ban và huyện ủy”. “Không phải dân Ngọc Hiển nghèo không có tiền sắm, mà vì không lẽ sắm ôtô rồi chạy xà quần trong sân nhà mình” - ông Năm Khởi tiếu lâm khi nói về vùng đất bờ nam sông Cửa Lớn, nơi duy nhất của cả nước vẫn chưa có đường ôtô từ trung tâm huyện về tới tất cả các xã.

Biệt lệ ở nghị trường

Không phải chỉ người Cà Mau mong chờ cầu Năm Căn, mà người trong cả nước, những ai biết về vị trí quan trọng của cây cầu, từng suy nghĩ về một con đường nối liền mạch đất nước đều mong chờ. Nỗi mong chờ ấy đã được thể hiện không gì rõ hơn bằng phiên họp toàn thể của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII ngày 18-6-2012, khi đa số đại biểu đã biểu quyết bổ sung vốn từ nguồn trái phiếu Chính phủ để xây cầu Năm Căn.

“Một quyết định đặc biệt để xây dựng cây cầu đặc biệt” - ông Dương Tiến Dũng, phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, đã nói vậy về quyết định cấp 650 tỉ đồng để xây cầu Năm Căn từ cơ quan dân cử cao nhất cả nước. Trước đó, nguồn vốn để xây cầu Năm Căn tưởng như bế tắc khi kinh tế khó khăn, Quốc hội ra nghị quyết dừng bổ sung vốn từ trái phiếu Chính phủ để xây các công trình mới. Nhưng câu chuyện từ đất mũi, từ nỗi mong chờ về con đường nối liền bán đảo Cà Mau, nối liền đất nước đã đưa cầu Năm Căn trở thành câu chuyện biệt lệ ở nghị trường.

Để có được biệt lệ ấy, từ năm 2009 chính quyền Cà Mau đã tìm nhiều cách để chuyển tải niềm mong mỏi của người dân về cây cầu Năm Căn đến trung ương. Ông Dương Tiến Dũng nhớ người đầu tiên lãnh đạo tỉnh tham khảo là nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Sự rụt rè ban đầu của lãnh đạo tỉnh nhanh chóng tan biến khi nhận được sự tán đồng của nguyên Chủ tịch nước.

Vậy là tranh thủ mọi cơ hội, Cà Mau đề xuất, giới thiệu với trung ương về tầm quan trọng của cầu Năm Căn, về nỗi mong ngóng của người dân vùng cuối đất. Chuẩn bị sẵn sàng cả các khâu từ khảo sát, thiết kế, mặt bằng trong khi chờ trung ương duyệt. Nhờ vậy mà chỉ hơn hai tháng sau ngày Quốc hội thông qua, ngày 29-8-2012, cây cầu mơ ước của người dân Cà Mau đã được khởi công.

Cầu Năm Căn đang được xây - đường thiên lý sắp liền một dải, ước mơ tưởng quá bình dị nhưng đằng đẵng đã bao năm về một con lộ đi cho đã chân của người dân miệt cuối đất sắp sửa thành hiện thực. Ông Dương Tiến Dũng kể người dân phía đất mũi dường như không còn nén được sự mong chờ nữa. Hồi mới rục rịch có tin Chính phủ sẽ cấp vốn xây cầu Năm Căn, dân Ngọc Hiển đã phi tàu cao tốc về Cà Mau mua xe máy rần trời dù chưa có đường chạy.

Chính quyền tỉnh Cà Mau cũng nóng lòng theo, cấp luôn kinh phí làm trước 20km lộ nhựa ngược lên từ đất mũi cho bà con chạy đỡ trong khi chờ cầu xây xong. “Giờ ngày nào điện thoại của tui cũng rộn cuộc gọi từ dân dưới đó, mà hỏi miết có một câu: Vậy chớ hồi nào mới xây xong cầu Năm Căn vậy ông phó chủ tịch?” - ông Dương Tiến Dũng cười rổn rảng.

Dự án cầu Năm Căn có cầu bêtông vĩnh cửu dài 890m, đường dẫn hai đầu hơn 2.500m, cầu có độ tĩnh không 30m đảm bảo cho tàu thuyền lớn qua lại, dự kiến xây dựng trong 18 tháng. Kỹ sư Trần Duy Trường - phó giám đốc chi nhánh Công ty xây dựng 479 tại Cà Mau, cho biết: Vì được xây trên một nền địa chất non yếu nên cầu Năm Căn là cây cầu có kỹ thuật xây dựng rất phức tạp, có cọc móng nhồi sâu đến 91m (bình thường chỉ khoảng 60m). Đồng thời dầm giữ lưu của nhịp chính còn có thêm cáp giữ lực phía ngoài.

Ngoài việc xóa thế cách trở cho huyện Ngọc Hiển, cầu Năm Căn sẽ có sự cộng hưởng trong việc phát triển kinh tế cả tỉnh Cà Mau và khu vực, khi cảng nước sâu Hòn Khoai được xây dựng có thể đón tàu trên 100.000 tấn bốc dỡ hàng hóa.
Hết.


Korean Air! - Theo Nguyễn Viễn Sự (TTO) và nhiều nguồn ảnh khác.